NÊN sao chép, chia sẻ, KHÔNG NÊN thương mại hoá.

Ngôi Nhà Cổ Trên Phố Tradd

Chương 22

Tác giả: Karen White
Ads Top

Căn hộ của Jack nằm trên phố Queen trong một khu dân cư được gọi là Khu Pháp vì trong quá khứ đã từng là nơi có đông đảo lái buôn người Pháp sinh sống. Nơi đây cũng được biết đến vì đã có lần suýt bị giật sập trong những năm một chín bảy mươi, và việc ấy đã rất có thể xảy ra mặc cho những nỗ lực kêu gọi của Hiệp hội Bảo tồn Charleston cũng như tiền quyên góp của người dân trên khắp nước Mỹ. Sophie, với nhiều người làm công tác bảo tồn cùng giuộc với nó, đã nói bằng một giọng rất nghiêm trang khi đề cập đến toàn bộ vụ việc này. Khi Jack và tôi rẽ trái vào khu Vendue Range, tôi hơi co rúm lại, nhớ lại điều tôi đã từng nói với Sophie rằng chỉ cần một quả tạ treo cần cẩu thì sẽ có thể giải quyết được rất nhiều cho vấn đề thiếu bãi đậu xe nơi đây.

Khi chúng tôi bước đến thang máy bên trong nhà kho chứa gạo thời thế kỷ thứ mười chín giờ đây đã được chuyển đổi thành căn hộ, tôi thấy thật ngưỡng mộ công việc trùng tu đã được thực hiện nơi đây sao cho vừa chuyển đổi không gian hiện tại của nhà kho mà vẫn giữ được phong cách cổ của nó, vừa tạo nên những căn hộ mới tân thời và trẻ trung. Tôi thấy Jack đang quan sát tôi với một nụ cười mãn nguyện nên tôi nhanh chóng lái tia nhìn của mình tập trung vào chiếc thang máy hầm hố bằng kim loại ấy.

Jack đẩy mạnh cửa vào căn hộ của anh, và tôi dừng lại ở bậc cửa, tự hỏi không biết anh có đi nhầm vào nhà hàng xóm của anh không. Căn hộ này có tất cả những đặc điểm hiện đại như những bức tường để lộ gạch xây, những ô cửa sổ cao, và những trần nhà cao vút với những xà ngang bằng gỗ khiến cho những căn hộ chuyển đổi như thế này trở thành thứ hàng hóa đang cực đắt hàng trong thị trường bất động sản hiện nay. Nhưng chính những bức tranh treo tường cùng đồ nội thất tuyệt đẹp nơi đây – một sự kết hợp hài hòa của những nét tinh tế hiện đại cùng những món đồ cổ lộng lẫy – đã gần khiến tôi như hoa mắt vì ngạc nhiên tột độ, giống như một vị khách không được báo trước trong chương trình truyền hình người thật việc thật vậy.

“Cô làm sao thế?” Jack hỏi, chùm chìa khóa đung đưa trong tay anh.

“Tôi chỉ… bị ngạc nhiên thôi.” Tôi nhìn chung quanh và nhìn thấy những chồng thư tín đặc trưng nằm trên quầy rượu trong phòng bếp, những tờ báo cũ vứt tứ tung bên dưới chiếc bàn nước bằng kính và thép xám, và đủ loại tạp chí thể thao đang để mở trên chiếc ghế xa-lông bằng da khiến tôi cảm thấy ngứa ngáy muốn đến đấy để sắp xếp chúng lại cho thẳng thóm. Rồi tôi chợt nhớ ra là mình phải ở đúng vị trí của mình.

“Ngạc nhiên à?”

“Ờ,” tôi đáp, và quay sang nhìn anh. “Có phải mẹ anh đã trang trí toàn bộ căn hộ này không?”

Anh thảy chùm chìa khóa vào cái tô sứ nhỏ trông giống như loại hiệu Herend đặt trên chiếc rương cổ hiệu Beidemeier ở lối vào nhà. “Thật ra, không phải. Tôi tự làm hết đấy. Bà ấy có giúp tôi mua vài món ở vài cuộc đấu giá, nhưng ngoài việc ấy ra thì còn lại là tôi toàn tự làm.” Anh bước vào phòng bếp thông với phòng khách rồi bước đến chiếc tủ lạnh làm bằng thép sáng. Rồi anh lấy ra một chai bia không cồn, giơ lên một chai về phía tôi, nhưng tôi lắc đầu.

Tôi bước đến một bức tường trong phòng khách và nhìn chăm chú vào bức tranh vẽ bằng bút chì hình vũ công ba-lê của danh họa Degas. “Anh có chắc mình không phải dân đồng tính không đấy?”

Anh đứng sát tôi rồi tu một hơi dài trên chai bia cổ cao đang cầm trên tay. “Chắc chứ. Tôi lúc nào cũng biết nên đặt chiếc ghế gác chân đơn lẻ vào chỗ nào, cũng như biết làm sao kết hợp cách xài đồ cổ Chippendale với dụng cụ cầm tay Craftsman. Ðây chắc là di truyền rồi.”

Tôi nhớ lại lần ấy anh đã lặng lẽ soi thật kỹ căn hộ của mình rồi lắc đầu, cố xóa đi hình ảnh ấy. “Chúng ta hãy xem những cái mật mã ấy nào,” tôi nói, cố hớn hở tập trung vào công việc thay vì vào sự thiếu tinh tế trong việc trang trí nhà cửa của mình trong khi rõ ràng đó là sở trường của Jack.

Anh dẫn đường vào khu vực được ngăn cách với phòng khách bằng một tấm phông kiểu Nhật Bản. Chiếc bàn làm việc bằng gỗ gụ to tướng, với chiếc máy vi tính Mac nằm chễm chệ ngay chính giữa một đống giấy tờ, chiếm hầu hết cả cái bàn, những bức tường để lộ gạch được bao phủ bởi những giá sách hiện đại bằng thép chứa đầy sách. Một tấm thảm Ba Tư màu dịu bao phủ sàn gỗ, làm ấm không gian và biến nó trở thành thiên đường ẩn dật cho một nhà văn. Một chiếc ghế đệm dài bằng da lạc đà lộn được đẩy sát vào một bức tường, và tôi đoán đây chắc phải là nơi anh dùng ngả lưng khi anh tập trung viết sách – cứ xem như anh đã từng phải tạm ngưng không liên lạc với thế giới bên ngoài vậy. Anh chàng Jack Trenholm mà tôi biết chưa bao giờ là người thiếu chữ nghĩa.

“Ðến đây nào,” anh nói và chỉ vào chiếc ghế xa-lông. Anh cầm lên một cuộn giấy vẽ rồi trải nó ra trước khi đặt lên sàn nhà. Rồi anh quỳ gối lên một bên và đè xuống hai góc, và tôi cũng làm tương tự ở phía bên kia. “Ðây là phần mà tôi đã chà sáp trên đồng hồ – và, như cô đã thấy lần trước, chúng chẳng mang ý nghĩa gì cả.”

Tôi nhìn vào cuộn giấy nhăn nhúm ở phần đỉnh và những con chữ khác nhau được vẽ bằng bút chì và không theo thứ tự rõ ràng nào cả: IFANKRNGMFEFIVEEMNROQNPDKNIASRKE.

“Như cô thấy đấy, ở phần đỉnh đây tôi đặt những chữ cái trong những cái cột theo thứ tự của chúng trên bề mặt. Bắt đầu từ lúc không giờ – cũng khá lô-gic, vì xem đây là khởi đầu của một ngày.”

Tôi xem xét mặt giấy, lần này để ý thấy rằng ở phần cuối tờ giấy là bảng chữ cái được viết từ A đến Z ngang qua chiều rộng của tờ giấy. Còn tờ giấy bên dưới những chữ cái này đã bị bôi xóa đến gần rách bằng cục tẩy vì, theo tôi nghĩ, những nỗ lực của Jack trong việc tìm ra một từ khóa có thể sử dụng để giải mã.

“Cái bảng này sử dụng như thế nào đây?” tôi hỏi và thấy nó có vẻ quen thuộc. Bà ngoại tôi từng rất thích chơi đủ loại ô đố chữ, và bà cũng rất thích chế ra những ô chữ cho tôi giải. Nhà của bà thời ấy có một phòng dành cho tôi và phòng ấy luôn chứa đầy sách chơi giải ô chữ. Tôi đã nhớ thật nhiều những cuốn sách ấy sau khi tôi chuyển sang ở với ba. Có lẽ những quyển sách ấy giờ đây vẫn còn nằm trong hộp trên gác mái của ngôi nhà hoặc đã bị quẳng đi từ đời nào cũng nên.

“Nếu biết được từ khóa, ta chỉ cần viết nó bên dưới bảng chữ cái, bắt đầu với chữ “A” sao cho mỗi chữ cái trong từ khóa có một chữ cái tương ứng từ bảng chữ cái này. Rồi, sau khi đã viết ra từ khóa ấy, ta bắt đầu một bảng chữ cái mới ngay sau nó – nhớ bỏ ra những chữ cái đã được tìm thấy trong từ khóa này.”

Anh cầm lên cây bút chì trên bàn làm việc rồi viết “CERCA TROVA” bên dưới bảng chữ cái, cẩn thận viết những chữ cái cho ngay hàng trong mỗi cột. “Mình không được để cho từ khóa có bất kỳ chữ cái nào lặp lại, nhưng tôi đã từng giải được ô chữ khi chỉ cần bỏ đi chữ cái nào lặp lại chữ đã có khi nó xuất hiện lần thứ hai.” Anh gạch bỏ chữ “A” trong từ “TROVA” vì nó đã xuất hiện trước đó trong từ “CERCA”, rồi viết phần còn lại của bảng chữ cái theo sau nó, cẩn thận không viết lại bất cứ chữ cái nào có trong từ khóa. Khi đã xong, anh nhìn tôi chờ đợi. “Xong rồi, cô đọc chậm cho tôi những chữ cái có trên đồng hồ nhé, từng chữ một.”

Tôi liếc lên trên tờ giấy vẽ, nơi Jack đã viết những chữ cái to đậm rồi đọc lớn cho anh nghe. “I, F, A, N, K, R, N, G…”

“Chờ tí, tôi không theo kịp.” Anh bắt đầu đảo những chữ cái ấy để tạo mật mã bằng cách tìm chữ cái trong bảng chữ cái chính, và rồi tìm chữ cái tương ứng của nó trong bảng chữ cái anh vừa tạo ra bằng cách dùng từ khóa “CERCA TROVA”. Tôi nghiêng người nhìn qua vai anh để xem mình có thể nghĩ ra được từ gì hay không. Từ trang giấy này, những chữ cái BTCIFMIO đập vào mắt tôi. Jack thảy cây bút chì xuống sàn. “Mẹ kiếp. Ðó không phải là mật mã đúng. Những chữ cái này chẳng hợp lại thành một từ nào cả.”

“Hay là ông Vanderhorst đã đảo lộn các chữ cái này để sau khi mật mã được giải xong thì bất kỳ ai đã giải được phải có nhiệm vụ sắp xếp chúng lại để có được câu trả lời thật sự.”

“Cũng có thể lắm, nhưng thông điệp này lại quá dài và không hề có khoảng cách giữa các chữ khiến cho việc giải mã gần như là bất khả. Và vụ này là để dành cho con trai ông ấy – để tránh những con mắt tò mò tọc mạch cũng như không để lạc vào tay người chuyên giải mật mã.” Anh gãi đầu. “Tôi sẽ hoàn tất những chữ cái còn lại trong bộ mã này trong trường hợp chúng ta phải xem lại từ đầu và xem chúng ta có cần xới tung nó lên lần nữa hay không.”

“Xê ra nào,” tôi nói và dịch chuyển những quyển sách ra các góc để chặn lên tờ giấy rồi ngồi xuống cạnh Jack. “Bọn mình hãy ngồi đây và nghĩ ra thật nhiều từ hoặc cụm từ mà Robert Vanderhorst có thể đã sử dụng. Mình nhất định sẽ tìm ra được gì đó.”

“Ðược thôi. Ðể tôi đi lấy chai bia đã. Tôi lấy cho cô một chai luôn nhé? Bia này không có cồn nhưng uống cũng khá ngon.”

“Cám ơn anh, nhưng chỉ một chai thôi nhé. Tôi nghĩ là việc này sẽ không mất nhiều thời gian đâu.”

Anh nhướn một bên mày nhưng không nói gì, chỉ đi vào bếp và mang ra hai chai bia.

Sau ba tiếng đồng hồ và thêm ba chai bia nữa, Jack và tôi đã viết ngoáy hết toàn bộ những tập giấy viết trong phòng làm việc, sử dụng tất cả những từ khóa mà chúng tôi có thể nghĩ ra, chẳng hạn như “hành lang cổng vòm,” “Nội Chiến,” “Magnolia Ridge,” “Louisa,” “Nevin,” và thậm chí “Ðại tướng Lee.”

Jack ngồi bệt xuống sàn nhà, lưng anh tựa vào những chiếc giá sách, rồi anh quẳng cây bút chì qua bên kia sàn nhà. “Chúng ta nhất định sẽ tìm ra được gì đó, hả?”

Tôi dùng mu bàn tay dụi đôi mắt mệt mỏi của mình. “Có lẽ chúng ta cần phải sắp xếp lại thứ tự các con chữ mà chúng ta tìm được khi dùng từ cerca trova.”

Jack lắc đầu, rồi nhắm mắt lại. “Tôi đã nhìn thấy những chữ này ở đâu rồi nhỉ? Nó khiến tôi phát điên lên được.” Anh nhìn vào đồng hồ. “Cũng muộn rồi, và Thư viện Lịch sử đóng cửa lúc bốn giờ. Hay là chúng ta đi ra ngoài, biết đâu có cái gì khác lại nảy ra trong đầu thì sao.”

“Nghe được đấy,” tôi nói và để anh kéo tôi đứng dậy. Tôi chẳng hứng thú về việc gặp gỡ người bạn làm ở thư viện của anh, và đầu óc tôi bắt đầu đau nhức, nhưng tôi cứ nhìn thấy gương mặt của ông Vanderhorst trong lần cuối cùng tôi gặp ông khiến tôi có cảm giác thôi thúc vốn đã lẩn tránh tôi cho đến tận bây giờ.

“Chúng ta đi đâu đây?” tôi hỏi sau khi anh đánh vòng xe ghé vào vỉa hè phố Market, vốn hoàn toàn chẳng nằm trong vùng lân cận của Thư viện Lịch sử.

“Tôi phải đi mua hoa. Yvonne rất yêu hoa và sẽ thất vọng nếu tôi đến mà chẳng mang theo gì. Tôi sẽ quay lại ngay.” Anh nháy mắt với tôi trước khi bước ra khỏi xe.

Tôi khoanh hay tay trước ngực rồi lặng lẽ nhại lại cái tên “Yvonne” khi ngồi một mình trong xe.

Jack mang về một lẵng hoa hồng vàng và nhờ tôi ôm chúng. “Màu vàng là màu ưa thích nhất của người ấy,” anh nói thêm.

Tôi ôm lẵng hoa trên đùi cho đến khi chúng tôi về đến Dinh thự Fireproof trên phố Meeting, là nơi tọa lạc của Thư viện Lịch sử. Sự may mắn của Jack trong việc luôn tìm được chỗ đậu xe sát vỉa hè đã không còn, và chúng tôi phải đậu xe trong bãi. Tôi vẫn đang ôm lẵng hoa hồng trên tay khi chúng tôi bước đến tòa nhà với những chiếc mái cổng phong cách Hy Lạp cổ. Mãi đến khi đi được nửa đoạn đường trên những bậc thang thì tôi mới nhận ra điều ấy và dúi những bông hoa ấy lại cho Jack.

Không gian bên trong thật tĩnh mịch, cùng với mùi nước sơn véc-ni và mùi sách cũ. Lồng cầu thang bằng đá có ba bậc mút chìa chiếm lĩnh sảnh cầu thang hình bầu dục và được thắp sáng bởi đỉnh vòm có ô kính trên cùng. Tôi lặng lẽ tự hoan hô mình vì không chỉ nhận biết mà còn hiểu rõ “mút chìa” hay “đỉnh vòm” nghĩa là gì, nhờ vào những cuốn sách của Sophie. Tôi cũng không quên để ý thấy rằng mình thật sự đang chiêm ngưỡng vẻ đẹp trong phong cách kiến trúc của một công trình vốn đã được xây từ trước thế kỷ thứ hai mươi mốt.

“Bạn tôi kìa,” Jack nói, còn tôi đứng đợi và nhìn anh bước đến một phụ nữ tóc búi sau gáy đang ngồi ở chiếc bàn dài và đang nghiên cứu một cuốn sách to đang mở. “Yvonne,” anh gọi lần nữa khi anh tiến đến chỗ người ấy đang ngồi. Người phụ nữ ấy quay lại nhìn anh và mỉm một nụ cười rất chân thật hiếm có khi ta làm một người quen bất ngờ tại một nơi mà ta không nghĩ là sẽ gặp được người ấy. Anh trao cho bà ấy lẵng hồng, và bà áp mũi lên chúng.

Jack kéo chiếc ghế của bà ra sau và giúp bà đứng dậy, sau đó quay sang tôi. Tôi suýt vấp ngã khi bước đến đấy, và chợt để ý thấy cây gậy đang dựng dựa vào chiếc bàn cách đấy một sải tay. “Yvonne Craig, xin giới thiệu với bà đây là Melanie Middleton.”

Yvonne chìa tay ra cho tôi nắm, và tôi ngạc nhiên vì sức mạnh của bàn tay ấy khi bắt tay bà. Bà nhỏ nhắn và ăn mặc thật đẹp, với đôi mắt nâu thông minh và sáng lấp lánh. Bà cỡ khoảng tám mươi tuổi. Bà mỉm cười, để lộ ra hai hàm răng giả trắng bóng hoàn hảo. “Vậy cô đây là người may mắn đã được thừa kế ngôi nhà của Nevin. Tôi cứ luôn tự hỏi ông ấy sẽ làm gì với nó sau khi ông ấy mất. Middleton, có phải cháu vừa nói đến cái tên ấy không?”

“Dạ phải,” tôi nói, hăm hở lẩn tránh những câu hỏi kế tiếp chắc chắn sẽ xảy ra về ba mẹ tôi. “Thật vinh hạnh được biết bà ạ,” tôi nói. “Jack đã kể với cháu rất nhiều về bà.”

Yvonne khiến tôi ngạc nhiên khi bà ấy cười khìn khịt. “Ha ha! Ta biết chắc là cậu ấy đã cố tình làm cho cháu tin rằng ta là một cô nàng trẻ đẹp nào đấy và đã phải lòng cậu ta. Chẳng phải là ta sẽ không chộp lấy cơ hội ấy, dĩ nhiên rồi, nhưng ta nghĩ sức sống mãnh liệt của cậu ấy chắc sẽ giết ta mất, chắc cháu cũng hiểu ý ta muốn nói gì chứ.” Bà nháy mắt và tôi không nhịn được cười. “Ðưa cho ta cây gậy nào, chàng trai đáng yêu?”

Khi Jack đưa cho bà cây gậy, tôi máy môi từ sau vai bà cho Jack nhìn thấy, Chàng trai đáng yêu? Nhưng anh chỉ nhướn nhướn đôi mày thay cho câu trả lời.

“Yvonne thích giả vờ như bà ấy là một bà già, nhưng bất cứ ai biết bà ấy đều đồng ý rằng có một cô gái mười tám tràn đầy sức sống đang ẩn nấp bên trong cái vẻ ngoài ấy. Tôi đã chờ đợi nhiều năm để chờ cơ hội, nhưng đám đông đang theo đuổi bà ấy quả khiến tôi cạnh tranh không lại.”

Yvonne vụt gậy vào chân Jack. “Hãy nhớ, chàng trai trẻ ạ, rằng những lời xu nịnh sẽ giúp cậu đạt được mọi thứ đấy.”

“Dạ nhớ,” Jack nói. “Vậy thì, bà đã tìm được gì về Susannah Barnsley chưa ạ?”

“Có đấy, ta đã tìm ra thông tin về người ấy. Và hãy thứ lỗi vì ta làm quá lâu nhưng vì có ai đó vào đây sáng nay và sử dụng quyển sách mà ta cần rồi tự cất nó trở lại vào giá sách – là điều mà họ không được phép làm,” bà nói điều ấy với một cái liếc ngang thật dài. “Và cái kẻ ngu dốt ấy đã nhét cuốn sách vào một chỗ hoàn toàn chẳng ăn nhập gì với nội dung cuốn sách – chỉ hoàn toàn là do lười nhác, nếu cậu hỏi ta tại sao. Việc ta tìm ra được cuốn sách ấy quả là một phép mầu vì khi ấy ta đang đi tìm một thứ khác cho một khách hàng. Và trong bao nhiêu loại sách trên đời, thì nó nằm ngay đấy, nhét giữa những tấm bản đồ của thế kỷ mười tám.”

“Có lẽ là một thằng nhãi ranh nào đấy,” Jack nói một cách lơ đãng.

Yvonne nhún vai. “Ta chẳng biết đó là ai vì ta không ở đây sáng nay. Ta chỉ biết rằng đã có ai đó đến đây và xem nó vì Priscilla nói với ta như thế khi ta hỏi cô ấy có thấy quyển sách ấy hay không.”

“Ði lối này,” bà nói, chỉ vào một chiếc bàn trong góc phòng với vài bộ sách bọc gáy da dày cộp chất chồng trên đỉnh. Chúng tôi len lỏi đi đến đấy rồi chờ đến khi bà mở quyển sách trên cùng. “Cậu biết không, cậu thật là may đấy. Có một tâm hồn nhân đức nào đó từ bảy mươi lăm năm về trước đã quyết định tìm cho ra hậu duệ của toàn bộ những nô lệ đã từng sống tại đồn điền Barnsley Hall dưới khu Dauphuskie. Ông này là cháu nội của người thợ rèn, và ta nghĩ là ông ta muốn tìm hiểu xem mình có còn ai là bà con thân thuộc còn sống hay không. Căn cứ vào tên họ của Susannah, ta nghĩ mình nên tìm hiểu chỗ này trước tiên.” Bà nháy mắt. “Và, như mọi khi, ta đã đoán đúng.” Rồi bà nhẹ nhàng mở một cuốn sách trông giống như cuốn sổ kế toán, và bọn tôi nhìn chằm chằm vào những nét chữ viết tay li ti đến không tưởng và viết đầy từng dòng trong cuốn sách.

“Ðừng hoảng hốt, cưng à,” bà nói với tôi. “Ta đã tìm ra thông tin mà cô cần và đã sao y bản chính cho Jack lưu lại. Nó cũng không nhiều chi tiết lắm đâu – chỉ là về ông bà cha mẹ của bà ta là ai – và đáng lưu ý nhất là chi tiết ông của bà ta là người da trắng. Bà ấy lớn lên ở khu Bắc Charleston, mẹ của bà làm nghề giặt ủi tại đấy. Ðó là toàn bộ thông tin ta biết về tuổi thơ của bà ấy. Mảnh thông tin cuối cùng là phần có liên quan nhiều nhất, ta nghĩ thế, là bởi vì nó có ghi rằng ở tuổi mười chín, bà ta dọn đến Charleston và sống ở phố Chalmers. Ðó là một ngôi nhà khang trang, trong khi bà ấy không được học hành và cũng chẳng có tiền của gì.”

Yvonne bĩu môi. “Bởi vì cậu đã cho ta địa chỉ cuối cùng được biết đến của bà ấy, nên ta không gặp trở ngại nào trong việc tìm hiểu về hồ sơ chủ sở hữu của ngôi nhà ấy. Và mảnh thông tin này có thể nói là hơi… gây sốc, nếu ta có thể dùng từ như thế.”

Bà đẩy một tập hồ sơ bằng giấy dày màu vàng nâu lên bàn cho tôi. “Ta nghĩ rằng cô Middleton phải là người đầu tiên được xem hồ sơ này.”

Tôi nhìn Jack, và anh gật đầu. Tôi lật trang bìa và nhìn thấy bên trong những tờ giấy sao y chằng chịt những dòng chữ viết tay nặng nề.

“Ta nghĩ nó nằm ở trên cùng thì phải,” Yvonne nói.

Tôi cầm lên trang đầu tiên và đọc kỹ tờ giấy. “Ðó là hợp đồng thuê nhà,” tôi nói, rồi đọc lướt xuống dưới, phần dành cho chỗ ký tên. Và chính chỗ này, viết bằng mực đen đậm, là chữ ký của ông Augustus Middleton.

Tôi bật ngược người lại và Jack cầm lấy tờ giấy từ tay tôi. “Ðó là… đó là ông nội của cháu. Tại sao ông ấy lại ký hợp đồng thuê nhà cho Susannah Barnsley nhỉ?”

Cả Yvonne và Jack cùng nhìn tôi với cùng một vẻ ngạc nhiên pha lẫn thú vị. Tôi chớp mắt khi sự thật bỗng vỡ òa trong đầu. “Ồ, ông ấy… ồ, tôi hiểu rồi.” Phản ứng đầu tiên của tôi là cảm giác nhẹ nhõm – nhẹ nhõm vì Robert Vanderhorst đã không có tình nhân. Mặt khác, tôi chưa bao giờ gặp ông nội nên chẳng cảm thấy xấu hổ hay ngạc nhiên khi biết rằng ông ấy ít ra cũng có thói tật như thế này.

“Rõ ràng là họ đã cặp với nhau trong mười năm – rồi sau đó ngôi nhà được cho người khác thuê, với bất kỳ giá nào. Bà ấy đã dọn ra khỏi ngôi nhà ấy vào năm một chín ba mươi.”

Jack cất tờ giấy trở lại vào tập hồ sơ. “Bà ấy đã dọn đi đâu nhỉ?”

Yvonne mỉm cười rạng rỡ. “Ta biết là cậu sẽ hỏi ta câu ấy – cho nên ta cũng đã tự mình tìm tòi đôi chút để xem có thể tìm ra gì không.” Rồi bà cười ngoác miệng giống như con mèo Cheshire trong truyện Alice lạc vào xứ thần tiên, và tôi biết rằng bà ấy đã đào đúng mạch. “Việc những người làm việc ở Thư viện Lịch sử như ta vốn chỉ chuyên về vùng Nam Carolina này không có nghĩa là ta và họ không bao giờ cần phải đi hỏi thông tin ở nơi khác. Thật ra đã rất nhiều lần ta đã phải làm như thế – và tương tự – những hội ban chuyên ngành khác cũng có lúc phải hỏi thông tin từ nơi này. Và đó cũng là việc tốt thôi.”

“Tại sao lại như thế?” Jack châm chọc.

“À, trước hết ta đã tìm trong những bản lưu trữ của bưu điện để xem có địa chỉ chuyển tiếp nào không. Chẳng có gì trong đó cả – việc này cũng hơi lạ. Nó khiến ta nghĩ rằng bà ấy đang cố tình ẩn dật hay gì đấy. Mà thôi, ta nghĩ rằng hầu như nơi nào cũng yêu cầu đặt cọc khi thuê nhà và sau đó được trả lại khi dọn ra. Ðúng là cũng bõ công ta thử tìm hiểu xem có cái séc nào đã được gửi đi sau khi Susannah dọn ra hay không. Rất có khả năng là nó được gửi lại cho ông Augustus, bởi vì ông ấy đã trả tiền thuê nhà. Nhưng nếu nó không được gửi cho ông ấy thì sao? Bà ta đã sống ở đấy trong mười năm cơ mà. Có lẽ chủ nhà nghĩ rằng số tiền cọc ấy thuộc về bà ta.”

“Thế thì, bà đã tìm được gì nào?” Jack ngồi lên góc bàn, sự mất kiên nhẫn của anh chỉ được lộ ra bởi những tiếng lắc rắc nhẹ từ xương hàm của anh.

“Cậu thật may mắn, vì vị chủ nhà này lưu giữ sổ sách cực kỳ tỉ mỉ – bao gồm cả những địa chỉ mà ông ấy đã từng gửi thư tín cho những người thuê nhà cũ.” Bà lại nhìn chúng tôi và mỉm cười đầy mãn nguyện trong khi bà lật nhanh các trang giấy trong tập hồ sơ, rồi lấy ra một mảnh giấy sao y trong đó có ghi địa chỉ bằng chữ viết tay. “Ta nghĩ rằng có lẽ cậu sẽ cần có cái này để tiện bề tham khảo, nên ta đã sao y một bản cho cậu. Trong khi chờ cậu đến, ta cũng đã lên mạng và tìm số điện thoại của bà ấy. Ta tự ý gọi cho bà ấy luôn và xin gặp Susannah. Người phụ nữ trả lời điện thoại chắc hẳn phải là điều dưỡng hoặc bạn bè hay gì đó bởi vì chị ấy bảo ta rằng Susannah đang ngủ nhưng sẽ vui lòng gọi lại sau. Ta bảo chị ta là không, cám ơn, rồi cúp máy.” Ðôi mắt bà ánh lên. “Ta nghĩ như thế có nghĩa bà ấy còn sống.”

Jack cầm lấy tờ giấy từ tay bà và nhìn vào đấy. “Susannah Barnsley, một-không-hai phố Orchard Lane, thành phố Colchester, tiểu bang Vermont.” Mắt chúng tôi giao nhau, và tôi biết cả hai đều nhớ lại mảnh giấy từ chiếc bao thư mà chúng tôi tìm được trong khung hình, là phần có ghi tên của Susannah nhưng chỉ có chữ “Orchard Lane” cho phần địa chỉ.

Vẫn ôm khư khư mảnh giấy trong tay, Jack trượt ra khỏi bàn và ôm chầm lấy bà lão ấy – là điều rõ ràng làm bà thích, nhìn vào nụ cười mỉm nhẹ nhàng của bà cũng như cái cách mà bàn tay gầy guộc ấy vỗ nhẹ lên vai anh thì đoán được ngay. “Bà thật tuyệt vời, bà Yvonne ạ. Nếu là cháu thì có lẽ sẽ phải mất vài tuần mới tìm ra được bất cứ thông tin nào mà bà tìm được đấy.” Rồi Jack đặt cho bà đứng trở lại.

“Cậu chỉ cần biết tìm đúng chỗ thôi, chàng trai đáng yêu ạ.” Bà liếc lên nhìn anh và đúng là bà đang chớp chớp hai hàng mi. “Ta nghĩ việc này cũng có nghĩa là cậu nợ ta một bữa ăn tối đấy nhé.”

“Lại nhà hàng Blossom hay là bà thích đi ăn thử ở nơi khác?”

“Blossom thôi. Ta sẽ gọi cho cậu để hẹn ngày giờ.” Rồi bà nháy mắt với tôi. “Và cô Middleton đây xin cứ tự nhiên tham gia cùng chúng tôi nhé.”

“Cháu rất vui lòng,” tôi nói, cầm lấy tay bà bằng cả hai tay và siết chặt. Ðiện thoại di động trong ví tôi bắt đầu reng nên tôi xin phép đi ra ngoài để Jack và Yvonne có thể chào tạm biệt nhau, rồi ra khỏi tòa nhà để trả lời điện thoại.

Khi tôi vừa ra ngoài thì cuộc gọi đã chuyển vào hộp tin nhắn. Tôi bấm nút để bật tin nhắn lên và nghe thấy tiếng của Marc, anh muốn hủy cuộc hẹn với tôi vào đêm ấy vì anh vừa có việc gấp phải đi xa vào giờ chót. Giọng nói mượt mà của anh thật khác với giọng của Jack. Ðầy tự chủ và gợi cảm hơn nhiều, nhưng cũng gần như là do cố ý nữa. Tôi dập máy điện thoại, tự nhủ làm quái gì mà tôi lại đi so sánh giọng nói của hai người đàn ông ấy với nhau chứ.

Tôi vừa cho điện thoại vào túi xách thì Jack cũng vừa trờ tới từ tòa nhà. “Marc vừa gọi,” tôi nói. “Anh ấy có việc phải đi xa và do đó phải hủy kế hoạch tối nay với tôi.”

“Thật là tiếc quá,” Jack nói, giọng nói và nét mặt của anh chẳng biểu cảm gì. “Như thế thì mình có thêm thời gian để giải mã tiếp. Và cũng để lên kế hoạch đi Vermont luôn.”

“Bọn mình sẽ đi Vermont à?”

“À, tôi nghĩ là cô có thể ở lại, nhưng có lẽ nếu được gặp trực tiếp bà Susannah thì sẽ thú vị hơn là chờ nghe tôi kể lại toàn bộ mọi việc.”

“Ðúng thế, nhưng chúng ta không thể gọi điện cho bà ấy được sao?”

“Gọi thì cũng được đấy, nhưng kinh nghiệm nhiều năm nghiên cứu cho tôi thấy rằng mình tìm hiểu được rất nhiều nếu đi gặp trực tiếp nguồn thông tin mà mình khai thác. Cô muốn đi với tôi hay không thì tùy cô thôi, nhưng tôi thì chắc chắn sẽ đi đấy.”

Tôi suy nghĩ một lúc, nhớ lại rằng công việc của tôi hiện không có gì quá quan trọng, và rằng dù sao thì Marc cũng không ở đây nữa. “Ðược thôi,” tôi nói và đi theo anh xuống những bậc thang xuống phố, nhận ra rằng ý nghĩ có thể giải được mã và gặp gỡ một người vốn có thể đã từng biết Louisa và Robert, và cũng là người chắc chắn đã từng biết ông nội của tôi, nghe thật hấp dẫn hơn nhiều so với việc đi ăn tối và ngắm pháo hoa cùng Marc. “Tôi nghe nói hoa lá mùa này ở vùng New England đẹp tuyệt vời.”

Jack nháy mắt với tôi. “Thế có ngoan không. Nào, giờ thì hãy quay về căn hộ của tôi và bọn mình sẽ tìm việc gì đó để cùng làm với nhau.”

Tôi nhướn mày trong khi anh mở cửa xe cho tôi.

Anh lắc đầu giả vờ phẫn nộ. “Ðể giải mã chứ còn làm gì nữa. Ðừng có nghĩ bậy nào, Mellie.”

“Tôi nghĩ là tôi sẽ đòi được đi ăn tối ở nhà hàng Jestine vì đã giúp anh đấy.”

“Cô có nói gì với Yvonne sau lưng tôi không thế?”

“Không hề,” tôi nói, tập trung nhìn vào con đường trước mặt. “Chỉ là tôi tự dưng lại khao khát món bánh kem dừa thôi.”

Anh cười hềnh hệch. “Tôi cũng thế.” Anh nói và tôi cười giòn khi anh bẻ lái đánh xe xuống đường và quay về phố Queen.

Bình luận
Ads Footer