NÊN sao chép, chia sẻ, KHÔNG NÊN thương mại hoá.

Mùa Hè

Chương 3

Tác giả: Edith Wharton
Ads Top

“Văn phòng” của ông Royall trong ngôi nhà màu đỏ chẳng giống một văn phòng tí nào vì ông hiếm khi có khách hàng. Với tính chất nghề nghiệp và tính độc lập của người đàn ông, ông ta phải có một văn phòng thật sự ở nơi khác, và với cương vị là một luật sư duy nhất của vùng North Dormer thì việc có một ngôi nhà giống như tòa thị chính thành phố và bưu điện là điều cần thiết.

Thói quen của ông là đi đến văn phòng ngày hai lần sáng và chiều. Nó nằm ở tầng trệt trong tòa nhà, có một lối đi riêng, và một tấm bảng nhỏ bằng kim loại đề tên đã phai màu cùng sương gió. Trước khi đi vào văn phòng, ông tạt sang bưu điện xem có thư không – thường thường là nghi thức nhạt nhẽo – nói một vài lời với người thư ký tòa thị chính ngồi phía bên kia trong trạng thái nhàn rỗi, rồi bước sang một cửa tiệm đối diện bên góc đường nơi Carrick Fry làm chủ tiệm. Ở đây ông luôn được dành một cái ghế, và ông thường gặp một vài người trong hội đồng đứng tựa mình vào cái quầy dài, trong một bầu không khí đầy dây thừng, da thuộc, hắc ín và cà phê hột.

Ông Royall, mặc dù ít nói ở nhà, trong tâm trạng nào đó cũng thích chống đối, và phát biểu quan điểm của mình với những người bạn ở tòa thị chính. Có lẽ ông cũng không muốn những khách hàng hiếm hoi ngạc nhiên khi thấy ông ngồi nhàn rỗi trong văn phòng không thư ký và đầy bụi bặm của mình. Giờ giấc của ông cũng không dài hơn giờ làm việc của Charity trong thư viện, phần thời gian còn lại, ông vào cửa tiệm hoặc lái xe lòng vòng để liên hệ với những công ty bảo hiểm mà ông đại diện, hoặc là ngồi ở nhà đọc quyển lịch sử nước Mỹ của Bancroft và đọc những bài diễn thuyết của Daniel Webster.

Kể từ ngày Charity nói với ông là nàng muốn có được chỗ làm của Eudora Skeff thì sự giao tiếp của họ đã hoàn toàn thay đổi. Luật sư Royall giữ lời hứa của mình. Ông giành được chỗ cho nàng nhờ hành động khéo léo của ông, nàng thắng nhiều thí sinh đối thủ, hai trong số họ là Orma Fry và cô gái lớn tuổi nhất tên Targatt, người đã cư xử chua chát với nàng gần suốt một năm sau. Ông cũng giao kết là đón Verena Marsh từ Creston đến để lo việc nội trợ. Verena là một quả phụ già đáng thương, run rẩyvà vụng về. Charity nghĩ bà ta đến là để được nàng giúp đỡ hơn là bà giúp nàng trong việc bếp núc. Ông Royall là một người đàn ông keo kiệt, thay vì trả một đô la một ngày cho cô gái thông minh thì ông lại đưa về một người điếc lác nghèo khổ mà không được việc gì. Nhưng dù sao đi nữa, Verena ở đó, gác xép phía trên phòng nàng.

Charity biết những gì xảy ra vào cái đêm đáng ghét đó sẽ không còn xảy ra nữa. Nàng hiểu từ trong sâu thẳm lòng mình, nàng đã coi khinh ông Royall. Và kể từ đêm đó, tự ông Royall cũng hết sức coi khinh bản thân mình. Nàng đề nghị có một người phụ nữ ở trong nhà là để làm bẽ mặt ông hơn là để bảo vệ bản thân nàng. Nàng không cần bất cứ ai bảo vệ nàng: tính kiêu căng bị hạ bệ của ông Royall chính là sự bảo vệ chắc chắn nhất dành cho nàng. Ông đã không nói một lời xin lỗi, coi như chẳng có gì xảy ra. Tuy nhiên những hậu quả của nó vẫn âm ỉ trong mọi lời nói mà ông và nàng trao đổi, trong mỗi cái liếc nhìn theo bản năng người này dành cho người kia. Bây giờ không thứ gì có thể làm lay động cái nguyên tắc của nàng trong ngôi nhà đỏ đó.

Sau cuộc gặp gỡ người họ hàng của cô Hatchard, đêm về nằm trên giường, hai cánh tay trần khoanh dưới đầu, nàng tiếp tục nghĩ về anh ta. Nàng nghĩ anh ta sẽ ở lại North Dormer ít lâu. Anh ta nói là đang tìm kiếm những ngôi nhà cũ xung quanh vùng. Nàng không rõ mục đích của anh ta, và cũng không hiểu người ta tìm kiếm những ngôi nhà cũ để làm gì trong khi chúng đang nằm sẵn hai bên lề đường. Nàng biết anh ta cần đến sự giúp đỡ của nàng về những quyển sách, vì vậy ngày hôm sau, nàng quyết tâm lùng sục quyển sách mà nàng chưa tìm thấy, hoặc là những quyển sách khác có liên quan đến vấn đề.

Chưa bao giờ nàng thấy mình ngu dốt về cuộc sống và văn học đến như vậy, nó đã đè nặng trên nàng khi nhớ lại hoàn cảnh thật sự của mình. “Thật là vô ích khi cố gắng là một cái gì đó ở nơi này,” nàng thì thầm trong gối và nàng trở nên bé nhỏ làm sao trong tầm nhìn mơ hồ về các thành phố lớn, cực kỳ sáng ngời như Nettleton, nơi đó các cô gái trong những trang phục đẹp hơn trang phục của Belle Balch, nói năng lưu loát về ngành kiến trúc với những chàng trai trẻ có đôi bàn tay giống như của Lucius Harney.

Rồi nàng nhớ lại cái nhìn đầu tiên mà anh ta gửi cho mình khi anh dừng lại ở bàn một cách đột ngột. Cái nhìn đó làm anh ta quên những gì sắp nói. Nàng nhớ lại sự thay đổi trên gương mặt anh ta. Nàng bật ngồi dậy, chạy vội vã đến bồn rửa mặt tìm hộp diêm, đốt nến, đưa nó lên tấm gương hình vuông trên bức tường trắng sạch. Gương mặt nhỏ của nàng, thường thì tái xanh, bây giờ thì rực rỡ như hoa hồng trong chùm ánh sáng yếu ớt của ngọn nến, dưới mớ tóc bù xù, đôi mắt nàng dường như sâu thẳm hơn và to hơn mọi ngày.

Và sau cùng nàng thấy có lẽ mình đã sai khi ước có được đôi mắt màu xanh. Nàng đang mặc chiếc áo ngủ bằng vải trúc bâu với một chiếc dây lưng cột vụng về và nút áo bó chặt. Nàng cởi khuy nút, mở dây cột để lộ đôi vai trần, nàng thấy mình giống như một cô dâu trong ngày cưới mặc chiếc áo satin cổ hở rộng, đang cặp tay với Lucius Harney xuống lối đi giữa nhà thờ. Anh ta sẽ hôn nàng khi họ rời giáo đường. Nàng để nến xuống và hai bàn tay che mặt mình như thể để giữ nụ hôn. Vào lúc đó nàng nghe bước chân của ông Royall trên những bậc thang đến phòng ngủ, và một cảm giác sợ hãi kinh hoàng quét qua nàng. Trước đây nàng vẫn coi khinh ông Royall, bây giờ thì cái ghét cay ghét đắng đã đong đầy trong trái tim nàng. Ông ta đã trở thành một ông già kinh tởm đối với nàng.

Ngày hôm sau khi ông Royall trở về nhà dùng bữa tối, họ chạm mặt nhau trong im lặng như thường lệ. Sự hiện diện của Verena là lý do để họ không nói chuyện cùng nhau, mặc dù sự điếc lác của bà ta cho phép họ có thể đàm thoại một cách tự do nhất. Nhưng khi bữa ăn đã kết thúc, ông Royall đứng lên nhìn ngoái lại Charity lúc nàng đang đứng giúp bà già dọn dẹp chén đĩa.

“Anh muốn nói chuyện với em trong giây lát.” – ông ta nói. Nàng theo sau ông Royall ngang qua hành lang để xem ông nói gì.

Ông ngồi vào chiếc ghế bành đen nhồi lông ngựa, còn nàng thì lạnh lùng đứng tựa vào cửa sổ. Nàng thiếu kiên nhẫn để nghe chuyên vì còn phải đi đến thư viện tìm cuốn sách nói về North Dormer.

“Này,” – ông nói – “tại sao em không ở thư viện trong những ngày mà đáng lẽ ra em phải ở đó?”

Câu hỏi làm tan đi tâm trạng đang hạnh phúc của nàng, và nàng nhìn trừng vào ông trong giây lát nhưng không trả lời.

“Ai nói là tôi không ở đó chứ?”

“Có vài lời than phiền. Cô Hatchard đã nói với anh sáng nay.”

Sự oán giận âm ỉ của Charity giờ đây bộc phát. “Tôi biết! chính là Orma Fry và con cóc cái Targatt, cả Ben Fry nữa chứ không ai khác. Hắn lượn lờ quanh đây với nó. Cái đồ hớt lẻo. Tôi luôn luôn biết chúng nó muốn hất tôi ra ngoài! Như thể là ai cũng muốn vào thư viện cho bằng được vậy!”

“Có người nói là em không ở đó ngày hôm qua.”

“Hôm qua hả?” – nàng cười to trong sự hồi tưởng hạnh phúc – “Vào lúc mấy giờ ngày hôm qua tôi không ở đó chứ? Tôi muốn biết.”

“Vào khoảng bốn giờ.”

Charity yên lặng. Nàng đã mải đắm chìm trong ký ức mơ màng về cuộc viếng thăm của chàng trai trẻ Harney đến nỗi nàng quên vị trí của mình và để trống nó ngay khi anh ta rời thư viện.

“Ai đến thư viện vào lúc bốn giờ?”

“Cô Hatchard.”

“Cô Hatchard ư? Sao, cô ấy không bao giờ đến chỗ đó từ khi cô bị què. Nếu cô ấy có cố gắng thì cũng không lên được những bậc thang.”

“Anh đoán là có người giúp cô ấy. Bằng cách nào đó mà một chàng trai trẻ ở tại nhà đã giúp cô ấy. Anh hiểu anh ta đã tìm em ở thư viện vào buổi chiều, rồi trở về nói với cô Hatchard rằng những quyển sách đang ở trong tình trạng tồi tệ, chúng cần phải được quan tâm hơn. Cô ấy bị kích động, và tự lái xe đến đó. Khi đến nơi thì thư viện đã khóa cửa. Vì thế cô Hatchard gởi lời “mắng vốn” về việc ấy và còn những phàn nàn khác nữa. Cô ấy tuyên bố rằng em đã phớt lờ mọi thứ và rằng cô ấy sẽ phải tuyển dụng một quản thủ thư viện khác được đào tạo hẳn hoi.”

Charity không động đậy khi ông nói. Nàng đứng ngửa đầu ra sau tựa vào khung cửa sổ, đôi cánh tay chống lên cạnh sườn, và hai bàn tay bấu thật chặt, không biết cái gì đã làm tổn thương nàng, đến nỗi mà những chiếc móng tay sắc cạnh ấn mạnh vào lòng bàn tay mình mà nàng cũng không cảm thấy đau.

Những gì ông Royall đã nói, nàng chỉ nhớ được cụm từ: “Anh ta bảo cô Hatchard rằng những cuốn sách đang ở trong tình trạng tồi tệ.” Nàng cần gì cái thứ phản đối về trách nhiệm của nàng chứ? Dù là ác tâm hay là sự thật, nàng cũng khinh miệt chúng như nàng khinh miệt những người gièm pha nàng. Người lạ đó đã cho nàng cảm giác ngọt ngào huyền bí giờ đã phản bội nàng. Chính vào lúc nàng lên đồi để nghĩ về anh ta trong khung cảnh tuyệt vời của thiên nhiên thì anh ta lại vội vã về nhà để tố cáo sự thiếu trách nhiệm của nàng! Nàng nhớ lại, trong bóng đêm ở phòng mình, nàng che mặt như để được gần hơn với nụ hôn tưởng tượng của anh ta. Trong trái tim mình, cuồng nộ của nàng đang nổi dậy và nghĩ rằng anh ta không có quyền làm như thế.

“Được rồi, tôi sẽ đi.” – đột nhiên nàng nói – “Tôi sẽ đi ngay.”

“Đi đâu?” – Nàng nghe giọng nói hốt hoảng của ông Royall.

“Đi đâu à? – Ra khỏi cái thư viện cũ kỹ của họ: đi ngay, và không bao giờ đặt chân vào đó nữa. Họ không cần nghĩ là tôi chờ đợi quanh đây để cho họ nói là họ đuổi tôi đâu!”

“Charity – Charity Royall, em nghe này!” – ông ta đứng lên một cách nặng nề rồi ra khỏi chiếc ghế, nhưng nàng xua ông ta qua một bên và bước ra khỏi phòng.

Trên gác nàng lấy chiếc chìa khóa mà nàng luôn luôn giấu nó dưới cái gối cắm kim của mình – ai dám bảo nàng không cẩn thận chứ? – Đội mũ vào, nàng lại trở xuống lầu và ra đường. Nếu ông Royall có nghe nàng đi ông ta cũng không có cử chỉ nào ngăn nàng lại. Ông Royall chợt cảm thấy bực bội nhưng có lẽ ông hiểu rằng thật vô ích để nói lý lẽ với nàng.

Nàng đến ngôi đền bằng gạch, mở khóa và bước vào trong lúc chạng vạng lạnh giá. Nàng nói lớn trong cái giọng chanh chua quen thuộc của mình: “Mình vui vì không thèm ngồi trong cái hầm mộ cũ kỹ này nữa, trong khi những người khác thì ở ngoài kia dưới ánh nắng mặt trời!”. Với vẻ ghê tởm, nàng nhìn những dãy sách cáu bẩn, tượng nữ thần Minerva có cái mũi cừu trên cái bệ màu đen, và một hình nổi của người trai trẻ có gương mặt đôn hậu treo phía trên bàn mình. Nàng nghĩ mình phải lấy cuộn ren và danh mục thư viện từ trong ngăn kéo, rồi đi thẳng đến nhà cô Hatchard để báo cho cô ta biết sự từ chức của mình. Nhưng bất chợt sự cô đơn bao la trùm lên nàng, nàng ngồi xuống và gục mặt lên bàn. Trái tim nàng tan nát bởi cuộc sống cay nghiệt: “cái sinh vật” đầu tiên đã đến và đưa nàng ra khỏi vùng hoang vu nay lại mang đến cho nàng niềm thống khổ thay vì niềm vui. Nàng không khóc, những giọt lệ khó tuôn ra, nhưng những cơn bão táp ào ạt đến trong lòng nàng. Khi nàng ngồi ở đó, trong nàng nhói lên và cảm thấy đời mình thật tiêu điều, thật tồi tệ và thật không thể nào chịu đựng được.

“Có bao giờ mình như thế này đâu , cái gì đã làm mình tổn thương thế?” – nàng rên rỉ và ấn các ngón tay lên mí mắt đang sưng lên vì khóc.

“Mình sẽ không – Mình sẽ không đến đó giống như kẻ hoảng sợ!” – nàng thì thầm, ngẩng đầu lên, vuốt ngược mái tóc đen ra sau như thể nó đang làm nàng nghẹt thở. Nàng mở ngăn kéo, lôi ra quyển ghi chép và quay ra hướng cửa. Khi nàng mở cửa thì chàng trai trẻ từ trong nhà cô Hatchard đến, vừa đi vừa huýt sáo.

Bình luận
Ads Footer