NÊN sao chép, chia sẻ, KHÔNG NÊN thương mại hoá.

Mùa Hè

Chương 6

Tác giả: Edith Wharton
Ads Top

Sau bữa ăn tối hôm đó, Charity ngồi một mình trong nhà bếp lắng nghe ông Royall và Harney nói chuyện ở ngưỡng cửa.

Sau khi bàn ăn đã được dọn sạch, nàng vẫn còn ở trong nhà và bà già Verena tập tễnh vào giường. Cửa sổ nhà bếp thì mở, Charity ngồi gần đó, đôi bàn tay nhàn rỗi để trên đầu gối. Buổi tối lạnh và tĩnh lặng. Ở xa xa những ngọn đồi đen chìm vào bầu trời màu hổ phách, xanh nhạt và rồi xanh thẫm mà trên đó le lói một ánh sao đêm. Tiếng kêu yếu ớt của một con cú nhỏ vang lên từ lúc chạng vạng, và giữa tiếng kêu của nó là tiếng trầm, bổng của hai người đàn ông.

Tiếng của ông Royall thì đầy đặn và vang vang. Đã lâu lắm rồi kể từ lúc ông không có ai đủ khả năng giống như Lucius Harney nói chuyện cùng: Charity hiểu rằng chàng trai này tượng trưng cho tất cả quá khứ bị hủy hoại và bị lãng quên của ông. Khi cô Hatchard được người chị góa bụa đang ốm đau gọi đi Springfield, và Harney, vào lúc đó lao vào công việc một cách nghiêm túc: vẽ, đo đạc tất cả những ngôi nhà giữa Nettleton và biên giới New Hampshire. Anh ta đã đề nghị lót lại ván sàn cho ngôi nhà đỏ trong khi người bác vắng mặt. Charity run lên vì sợ ông Royall sẽ từ chối. Không có câu hỏi nào dành cho sự ăn ở của chàng trai: không có căn phòng cho anh ta. Nhưng có câu trả lời rằng anh ta vẫn ở nhà cô Hatchard nếu ông Royall để cho anh ta ăn những bữa ăn ở ngôi nhà đỏ, và sau một ngày cân nhắc, ông Royall đã ưng thuận.

Charity cho là ông Royall vui vẻ vì có cơ hội kiếm được một ít tiền. Ông nổi danh là người hám lợi; nhưng rồi nàng nghĩ có lẽ ông nghèo hơn những gì người ta biết. Việc làm thực sự của ông bắt đầu ít hơn nhiều. Chỉ có vài lần được triệu tập đến Hepburn hay Nettleton để làm sông lại huyền thoại nói về ông. Cuộc sống của ông chủ yếu nhờ vào việc sản xuất hiếm hoi ở nông trại và tiền hoa hồng nhận được từ một vài công ty bảo hiểm ở các vùng lân cận mà ông đại diện. Vì vậy, ông Royall bị thúc đẩy trong việc cho Harney thuê chiếc xe độc mã với giá một đô la trong nửa ngày. Sự hài lòng trong việc mặc cả đã tự chứng minh cảnh sông của ông. Vào cuối tuần lễ đầu tiên, ông thả một tờ 10 đô la xuống đùi của Charity khi nàng ngồi sửa lại cái mũ cũ của mình.

“Đây! Hãy mua cái mũ đẹp dành cho ngày Chủ Nhật, có quai mà nó có thể làm cho các cô gái khác điên lên.” – ông ta vừa nói vừa nhìn nàng với đôi mắt sâu, lấp lánh, bẽn lẽn như mắt cừu, và nàng tức khắc đoán rằng đây là món quà bất thường, món quà bằng tiền duy nhất mà nàng nhận được từ tay ông ta, nó tượng trưng cho sự chi trả đầu tiên của Harney.

Nhưng việc người trai trẻ đến đã mang về cho ông Royall lợi ích khác còn hơn cả tiền tài. Đây là lần đầu tiên trong nhiều năm, ông có được một tình bạn.

Charity chỉ lờ mờ hiểu những nhu cầu của người bảo vệ mình, nhưng nàng biết ông tự nghĩ mình là người trên hết giữa những người đang sống chung quanh và nàng cũng nhận thấy Lucius Harney cũng nghĩ ông như vậy. Nàng ngạc nhiên khi thấy dường như ông biết nói và biết lắng nghe khi có người hiểu ông, và nàng đau khổ vì sự tôn kính thân thiện của Harney với ông.

Câu chuyện của họ hầu hết là nói về chính trị, ngoài phạm vi hiểu biết của nàng, nhưng đêm nay nó có sức thu hút nàng lạ kỳ, vì đã bắt đầu câu chuyện về “Núi”. Nàng ngồi lùi lại một chút để họ không thể thấy mình đang lắng tai nghe.

“Núi? Núi hả?” – nàng nghe ông Royall nói. “Núi là một nơi nhơ nhuốc – đúng vậy, thưa ông, đó là một nơi nhơ nhuốc. Đáng lẽ ra phải đuổi đám cặn bã trên đó lâu rồi, nếu không thì những người ở dưới này sẽ sợ bọn họ lắm, chính ra là phải làm như vậy. “Núi” thuộc thành phố nhỏ dưới này, và đó là lỗi của North Dormer nếu có một gã trong số những kẻ trộm sống ngoài vòng pháp luật ở đó, trong cách nhìn của chúng tôi thì đó là sự coi thường luật pháp của đất nước. Không có một người thi hành luật pháp, một người thu thuế hay một nhân viên điều tra nào dám lên trên đó. Khi họ nghe có vụ gì phiền phức trên đó thì những người trong hội đồng quản trị nhìn theo một hướng khác là đưa một món tiền cho người mang tin tức cho xong chuyện. Người duy nhất đi lên trên đó bao giờ cũng là vị giáo sĩ, ngài đi bởi vì họ được phái xuống và đón ngài lên bất cứ khi nào có người chết. Họ nghĩ rằng có nhiều người theo đạo Cơ Đốc chết chôn trên “Núi”, nhưng tôi chưa bao giờ nghe họ mời ngài lên làm lễ cưới cho họ. Họ cũng chưa bao giờ gây phiền hà cho công lý hòa bình. Họ chỉ tụ tập từng đàn giống như người ngoại đạo mà thôi.”

Ông ta tiếp tục giải thích bằng thứ ngôn ngữ có chút kỹ thuật, rằng thuộc địa nhỏ bé của dân nhập cư bất hợp pháp đó đã khôn ngoan toan tính trước để giữ luật “rừng” ra sao. Charity với sự bừng bừng háo hức chờ lời bình luận của Harney, nhưng chàng trai dường như quan tâm đến quan điểm của ông Royall hơn là nghe ông mô tả nó.

“Tôi nghĩ chắc ông chưa bao giờ tự lên trên đó?” – anh ta hỏi ngay sau đó.

“Vâng, chưa bao giờ.” – ông Royall vừa nói vừa cười khinh bỉ. Những kẻ hợm mình ở dưới đây nghĩ tôi sẽ bị làm tình làm tội trước khi tôi quay trở về, nhưng không ai làm hại tôi dù chỉ một ngón tay. Và có một gã trong nhóm của họ được gửi xuống cách nay bảy năm.”

“Rồi sau đó ông lên trên ấy?”

“Vâng thưa ông, ngay sau đó. Có một gã chạy xuống Nettleton như người điên, cái cách mà họ vẫn làm đôi khi. Sau đó họ làm công việc chặt củi rồi phung phí tiền bạc, và cuối cùng người đàn ông này mang tội ngộ sát. Tôi cho gã đó án tù. Họ sợ Núi hơn là sợ luật pháp khi ở Nettleton, và rồi một chuyện kỳ quặc xảy ra. Gã đó nhắn tôi đến để gặp gã trong tù. Tôi đến, và gã nói: “Thằng hề đã bào chữa cho tôi là một thằng con nít nhát gan của một…” và đây là tất cả phần còn lại của câu chuyện mà gã ta nói: “Tôi có một công ăn việc làm ở trên Núi, và ông là người duy nhất tôi nhìn thấy ở tòa án, ông có vẻ như là người sẽ giúp tôi một việc. Gã bảo tôi rằng gã có một đứa con gái nhỏ ở trên Núi, gã muốn tôi mang nó xuống và sau đó cho nó theo đạo Cơ Đốc. Tôi thông cảm cho gã, vì vậy tôi lên trên đó và mang đứa bé về.” Ông ta dừng lại, và Charity lắng nghe với một trái tim thổn thức. “Đó là lần duy nhất tôi lên Núi.” – ông ta kết luận.

Có một khoảnh khắc yên lặng, rồi Harney hỏi: “Còn đứa bé đó bộ nó không có mẹ sao?”

“Ồ, có chứ. Nó có mẹ. Nhưng người mẹ vui lòng cho nó đi và sẵn lòng đưa nó cho bất cứ ai. Họ không còn giống con người. Tôi đoán người mẹ bây giờ đã chết do cuộc sống mà bà ta đã sống. Dù thế nào đi nữa, kể từ đó tôi không bao giờ nghe điều gì về bà ta.”

“Chúa ơi, thật là kinh khủng.” – Harney thì thầm, còn Charity thì nghẹt thở vì bị bẽ mặt, nàng chạy vội lên lầu. Cuối cùng nàng biết mình là một đứa con của người nhậu nhẹt say sưa bị tù tội và có một người mẹ “nửa người, nửa thú” đã vui vẻ đem nàng cho kẻ khác, và nàng đã nghe được câu chuyện về cội nguồn của mình có liên quan đến một con người, mà trong đôi mắt của ông, đã từ lâu nàng thấy là kẻ bề trên của nhiều người xung quanh mình! Nàng nhận ra rằng ông Royall không biết tên nàng và cũng không nói bóng gió để tránh cho nàng biết mình được mang từ Núi xuống, và nàng cũng biết, vì quan tâm đến nàng mà ông giữ yên lặng như thế.

Suốt mười ngày tạm trú ở North Dormer, Lucius Harney không nói một tiếng yêu nàng. Anh ta đã can thiệp vào nàng với tư cách là họ hàng của cô Hatchard và cũng đoan chắc với cô Hatchard rằng nàng là một quản thủ thư viện có phẩm chất xứng đáng, anh ta đã gây ra sự hiểu lầm làm cho những phẩm chất đó bị đặt dấu hỏi. Anh ta đã đề nghị nàng đưa mình đi vòng quanh miền quê khi anh ta thuê chiếc xe độc mã của luật sư Royall để tiếp tục phác thảo những nơi mình muốn thám hiểm, đây là điều tự nhiên vì anh ta không quen thuộc vùng này.

Sau cùng, khi cô Hatchard được gọi đến Springfield, anh ta đã xin ông Royall cho mình ở trọ, nhưng có nơi nào ở North Dormer có một chỗ cho khách trọ chứ? Không phải ở nhà Carrick Fry có người vợ bị liệt và là một gia đình đông đúc tụ tập quanh bàn ăn, cũng không phải ở gia đình Targatts, nhà ở cách con đường một dặm, hoặc cũng không ở nhà bà già đáng thương Hawes đã bị đứa con gái lớn nhất mồng rẫy, bà nghèo nàn không còn khả năng lo được những bữa ăn cho mình, trong khi đó Ally đã cho bà một chân thợ may. Nhà luật sư Royall là ngôi nhà duy nhất mà chàng trai có thể được cung cấp thức ăn, thức uống tươm tất. Bởi vậy cho nên, nhìn bên ngoài của những sự kiện thì không có gì làm dấy lên trong lồng ngực của Charity, nhưng thực ra, nó đã làm rung động lòng nàng. Nhưng dưới những việc xảy ra cho kết quả là việc Lucius Harney đến như có dòng nước ngầm thần bí, uy lực rất lớn mà ảnh hưởng của nó có thể làm khu rừng rụng lá tả tơi trước khi băng tan trên những mặt hồ.

Công việc mà Harney quan tâm thì đáng tin cậy. Charity đã thấy bức thư từ Nhà xuất bản New York gửi đến để ủy nhiệm cho anh ta nghiên cứu những ngôi nhà của thế kỷ 18 trong những quận ít được biết đến ở New England. Nhưng điều khó hiểu là tại sao anh ta lại vui vẻ trước những ngôi nhà lôi thôi lếch thếch, phai màu mà không thèm nhìn những ngôi nhà khác đang được những người thợ xây địa phương trang trí và cải thiện. Nàng không thể hiểu nổi nhưng nàng hoài nghi có phải Eagle County không rành về khoa kiến trúc mà anh ta nói hay không. Trong khoảng thời gian anh ta ở lại (mà anh ta đã xác định là một tháng) thì không liên quan gì đến cái nhìn đầu tiên trong đôi mắt của anh ta trao cho nàng trong thư viện. Mọi thứ dường như nằm ngoài cái nhìn đó: cách anh ta nói chuyện với nàng, việc nhanh chóng bắt được ý nàng, sự háo hức kéo dài những chuyến tham quan và tìm mọi cơ hội để được ở bên nàng.

Những dấu hiệu yêu thích của anh ta thì rõ ràng rồi, nhưng khó mà đoán được chúng có bao nhiêu, bởi vì thái độ của anh ta rất khác so với những gì mà North Dormer đã đối xử với nàng xưa nay. Anh ta đơn giản hơn và đáng kính trọng hơn bất cứ ai mà nàng biết; và đôi khi vì anh ta quá đơn giản mà nàng cảm thấy có khoảng cách giữa họ nhất. Học vấn và cơ duyên đã phân chia họ bằng một bề rộng mà không một nỗ lực nào của nàng có thể làm cầu nối. Tuổi trẻ và sự ngưỡng mộ của anh ta đã mang anh ta đến gần nàng hơn, lời nói tình cờ, vài lời nói bóng gió vô tình dường như ném nàng xuống vực sâu.

Chưa bao giờ nàng há hốc miệng to như thế khi nàng chạy vào phòng mang theo lời nói vang vọng của ông Royall về câu chuyện. Tư tưởng bối rối đầu tiên của nàng là mong không gặp lại chàng trai trẻ Harney nữa. Thật là cay đắng khi nhớ lại hình ảnh anh ta như kẻ lắng nghe bàng quan vô tư trước một câu chuyên như vậy. “Mình muốn anh ta đi cho khuất mắt: mình ước gì anh ta đi ngay ngày mai và không bao giờ trở lại!” – nàng thổn thức trong gối, và sâu trong bóng đêm nàng nằm đó trong chiếc áo nhầu nát mà nàng quên cởi ra, tâm hồn chìm đắm trong nỗi thương đau mà những hy vọng mộng mơ đã úa tàn như những cọng rơm khô.

Tình trạng rối bời chỉ là một cơn nhói tim, nó tan biến ngay khi nàng bừng mắt vào sáng hôm sau. Ý nghĩ đầu tiên là về thời tiết, vì Harney yêu cầu nàng đưa anh ta đến ngôi nhà màu nâu dưới Porcupine, và đi vòng qua Hamblin. Chuyến đi dài nên họ phải khởi hành vào lúc 9 giờ. Mặt trời lên không một áng mây, nàng xuống bếp sớm hơn thường lệ, làm bánh mì phô mai, cho sữa vào chai, gói 2 cái bánh nhân táo và cằn nhằn Verena vì đã cho ai đó cái giỏ luôn luôn được treo trên cái móc ở hành lang. Khi ra ngoài ngưỡng cửa, nàng mặc chiếc áo bằng vải trúc bâu màu hồng hơi bạc màu một chút nhưng vẫn còn đủ sáng để cho da nàng thấy đỡ đen. Nàng có cảm giác chiến thắng mình là một phần của ánh sáng mặt trời vào buổi sáng mà dấu vết bi thương cuối cùng đã tan biến.

Ông Royall cũng ở ngưỡng cửa. Ông ta không nói lời nào trong bữa điểm tâm, nhưng khi nàng đi ra trong chiếc áo màu hồng, giỏ trong tay, ông ta nhìn nàng ngạc nhiên. “Em đi đâu vậy?” – ông ta hỏi.

“Gì chứ? Ông Harney bắt đầu chuyến đi sớm hơn thường lệ.” – nàng trả lời.

“Ông Harney, ông Harney? Bộ ông ta chưa học cưỡi ngựa sao?”

Nàng không thèm trả lời, còn ông thì ngồi nghiêng về phía sau trên ghế gõ nhịp xuống chấn song ngưỡng cửa. Đây là lần đầu tiên ông nói về người trai trẻ trong cái giọng đó, và Charity cảm thấy hơi ớn lạnh trong nỗi sợ sệt. Một lúc sau ông ta đứng lên và bước ra mảnh đất nhỏ phía sau nhà, nơi người làm thuê đang cuốc đất.

Không khí lạnh và trong trẻo, lấp lánh hơi thu mà một ngọn gió từ phương bắc mang đến cho những ngọn đồi trong lúc vào hè. Đêm thì rất tĩnh lặng, sương treo trên mọi vật, không phải là những giọt sương mong manh mà là những chuỗi hột kim cương lấp lánh trên những cây dương xỉ và trên cỏ. Phải đi một quãng đường dài để đến chân Porcupine: trước tiên là băng qua thung lũng bao phủ bởi những ngọn đồi xanh um quanh những dốc núi. Rồi họ xuống rừng sồi. Sau đó thì hướng về Creston, một suối màu nâu nhấp nhô trên những hòn đá ngầm như nhung; rồi quay lại vùng đất nông trại ở quanh hồ Creston, và dần dần lên những đỉnh của dãy Eagle. Sau cùng họ đến nơi giáp ranh của các ngọn đồi, trước khi họ đến một thung lũng khác xanh và hoang dã. Xa trên kia, trời xanh cuộn những đám mây lững lờ giống như những đợt sóng thủy triều dần rút đi.

Harney cột ngựa vào một gôc cây đã đốn, họ mở giỏ đồ ăn để dưới một cây óc chó có một vết nứt chẻ đôi thân cây và từ đó có những con ong nghệ bắn vọt ra. Mặt trời trở nên nóng, phía sau họ là rừng cây đang thì thào lúc giữa trưa. Những côn trùng mùa hạ nhảy múa trong không khí, một đàn ruồi trắng quạt cánh trên cỏ lông chồn đỏ thắm. Trong thung lũng bên dưới không có một mái nhà, như vậy dường như chỉ có Charity Royall và chàng trai Harney là hai sinh vật duy nhất sông trong khoảng thung lũng bao la của trời đất.

Charity xuống tinh thần và những ý nghĩ băn khoăn trở lại với nàng. Chàng trai Harney trở nên yên lặng, khi anh ta nằm bên cạnh nàng, hai cánh tay đặt dưới đầu, đôi mắt nhìn lên những chiếc lá bên trên thì nàng tự hỏi liệu anh ta có suy nghĩ gì về những điều mà ông Royall đã nói hay không. Có lẽ anh ta đã thật sự hạ thấp địa vị của nàng trong ý nghĩ của anh ta rồi. Nàng ước gì anh ta không nhờ mình đưa anh ta đi đến ngôi nhà màu nâu hôm nọ, khi câu chuyện về sự xuất hiện của nàng còn in rõ rệt trong trí anh ta. Nàng không muốn anh ta gặp những người ở nơi mà nàng từ đó đến. Đã hơn một lần nàng muốn đưa ra đề nghị là họ sẽ men theo đỉnh và đi thẳng đến Hamblin, nơi có một ngôi nhà hoang mà anh ta muốn xem, nhưng sự ngượng ngùng và tính kiêu căng giữ nàng lại. “Anh ta phải biết loại người mà mình thuộc về họ.” – nàng tự nói với mình, với một sự gượng gạo, nhưng thực tế đó là điều tủi thẹn đã giữ nàng im lặng.

Thình lình nàng đưa ngón tay chỉ lên trời: “Kìa, một cơn bão sắp đến.”

Anh ta ngó theo nàng và mỉm cười: “Có phải một đám mây vụn giữa những cây thông làm cô sợ, phải không?”

“Nó ở trên Núi, và một cụm mây trên Núi luôn luôn đem đến phiền toái.”

“Ồ, tôi không tin một nửa những điều tồi tệ mà cô nói về Núi! Nhưng dù sao thì chúng ta cũng nên đi xuống ngôi nhà màu nâu trước khi cơn mưa đến.”

Anh ta nói không sai, vì có vài giọt mưa rơi xuống rải rác khi họ quay ra đường đi theo sườn núi lởm chởm của Porcupine và vào căn nhà màu nâu. Nó đứng một mình bên cạnh một đầm lầy có những cây cao mọc quanh. Không có ai ở bên trong và khó mà đoán được động cơ nào thúc đẩy người định cư trước đây đã làm một cái nhà ở nơi khỉ ho cò gáy này.

Charity đủ nhận thấy sự uyên bác của người đồng hành và hiểu được cái gì đã hấp dẫn anh ta đến căn nhà này. Nàng để ý đến họa tiết hình quạt của một cái đèn bể trên cửa, các nếp hình máng trên những cột trang trí ở các góc tường và cái cửa sổ tròn đặt ở đầu hồi. Nàng biết rằng đây là những điều đáng được chiêm ngưỡng và ghi nhớ mà vì lý do nào đó nàng đã quên đi. Chưa hết, họ còn thấy những căn nhà “điển hình” (đó là lời của Harney) khác ở đằng xa; rồi khi anh ta ném dây cương vào cổ ngựa và nói với một cái rùng mình ghê sợ: “Chúng ta sẽ không ở lại lâu.”

Khác biệt với những cây tổng quán sủi không ngừng lung lay trước gió, ngôi nhà chường bộ mặt với những đường nét trắng trong cơn bão nom có vẻ tiêu điều hoang vắng một cách lạ thường. Nước sơn thì bong gần hết trên những tấm ván dãi dầu sương gió, những tấm kính cửa sổ bể và được che lại bằng những tấm vải, trong khu vườn thì những con ruồi xanh to tướng vo ve trên những cây tảo bẹ, tầm ma, cây ngưu bàng đã chết và các loại cây mọc ở đầm lầy.

Nghe tiếng động của bánh xe, một đứa bé có đôi mắt xanh giống như đôi mắt của Liff Hyatt, ló đầu ra trên phía hàng rào, rồi chạy ra phía sau nhà. Harney nhảy xuống và giúp Charity ra ngoài xe cũng là lúc mưa đổ ập lên họ. Trời gây cơn cuồng nộ, làm những bụi cỏ và những cây non nằm rạp xuống đất. Gió thổi tung những chiếc lá giống như cơn bão mùa thu, biến con đường thành dòng sông và những chỗ trũng thành hồ. Sấm rền vang không ngừng trong cơn mưa ầm ầm và một tia chớp lạ lùng bắn vọt xuống đất dưới bóng tối dần tăng.

“May mà chúng ta đều ở đây.” – Harney cười. Anh ta cột ngựa ở nửa gian nhà chứa đồ không có mái che, choàng Charity trong chiếc áo của mình rồi cả hai chạy vào nhà. Cậu bé lúc nãy không thấy xuất hiện và không có ai trả lời sau những tiếng gõ cửa, Harney mở cửa và họ vào nhà.

Có ba người trong nhà bếp. Một bà già bịt một cái khăn tay trên đầu đang ngồi bên cạnh cửa sổ. Bà ta đang giữ một con mèo có vẻ yếu ớt trên đầu gối. Bất cứ lúc nào nó nhảy xuống, lê những bước khập khễnh ra ngoài thì bà ta khom người xuống bắt nó lên đặt vào chỗ cũ. Trên gương mặt già nua không có một sự thay đổi nào, và bà cũng không để ý đến việc gì khác. Một người đàn bà khác đầu tóc rối bù mà một lần Charity đã thấy lúc lái xe ngang qua, đứng tựa vào khung cửa sổ, nhìn chằm chằm vào họ, gần phía cái thùng, một người đàn ông râu ria lởm chởm trong chiếc áo rách bươm ngồi mơ màng ngủ.

Nơi đó trần trụi, cùng khổ và không khí thì nặng nề với mùi dơ bẩn và mùi thuốc lá. Trái tim Charity se lại. Những câu chuyện chế giễu về những người ở Núi trở lại với nàng, cái nhìn trừng trừng vô cùng bối rối của người đàn bà, gương mặt rất đần độn và cục súc của người đàn ông đã làm nàng gớm ghiếc mà nó réo rắt trong nỗi sợ hãi không rõ rệt. Nàng không sợ cho mình, nàng không sợ gia đình Hyatt gây phiền hà cho nàng nhưng nàng không biết họ sẽ đối xử thế nào với “người thành phố” này.

Lucius Harney chắc là sẽ cười vào những nỗi sợ hãi của nàng. Anh ta liếc qua căn phòng, cất tiếng “xin chào” nhưng không ai trả lời, rồi anh ta xin phép người đàn bà trẻ hơn để được trú mưa qua cơn bão.

Bà ta chuyển đôi mắt từ Harney sang nhìn Charity.

Charity đỏ mặt. “Tôi là Charity Royall.” – nàng nói, như thể khẳng định cái quyền nói tên trong chính cái nơi mà có thể mở đầu câu chuyện nhât.

Người đàn bà dường như không chú ý. “Cô có xể (thể) ở nại (lại).” – bà ta chỉ nói thế rồi quay lại khom lưng khuấy một thứ gì đó trong một cái dĩa.

Harney và Charity ngồi trên một cái ghế dài làm bằng tấm ván để trên hai hộp bột mì. Họ ngồi quay ra cửa mà bản lề bị gãy, qua khe nứt họ nhìn thấy đôi mắt của thằng bé lúc nãy và một cô bé nước da tái mét có một vết sẹo ngang bên má. Charity mỉm cười và ngoắc chúng nó lại, nhưng khi tụi trẻ biết Harney và Charity đang nhìn, chúng liền chạy mất dạng với đôi chân không giày dép. Nàng thấy chúng sợ đánh thức người đàn ông đang ngủ, và có lẽ cùng chia nhau nỗi sợ nên người đàn bà bước đi không một tiếng động và tránh đến gần lò sưởi.

Mưa vẫn tuôn xối xả vào nhà, từ trên hai cửa sổ được dán bằng những miếng vải, mưa gửi hai dòng nước đến làm thành vũng trong sàn nhà. Con mèo kêu meo meo chống chỏi, bà già khom lưng nhặt nó lên, ôm chặt nó trong đôi bàn tay xương xẩu của mình. Người đàn ông nửa mê nửa tỉnh, chuyển đổi vị trí một, hai lần và lại ngủ gật, đầu gục xuống trên bộ ngực đầy lông. Nhiều phút trôi qua, mưa vẫn chảy ròng ròng xuống cửa sổ làm cho sự ghê tởm về nơi chôn, và con người dâng trào trong Charity. Cảnh tượng về bà già thiểu năng, những đứa bé nhút nhát, và người đàn ông tả tơi đang ngủ bên thùng rượu, đã làm cho nàng nghĩ về cuộc sống có vẻ bình yên và đầy đủ của mình.

Nàng nghĩ đến nhà bếp của ông Royall với nền được chùi lau sạch sẽ, tủ chén thì chất đầy chén dĩa kiểu, mùi vị khác thường của men bia và mùi xà bông mà nàng luôn luôn ghét, nhưng bây giờ dường như đó là biểu tượng ngăn nắp cần có của những vật dụng trong nhà. Nàng thấy phòng của ông Royall, với một cái ghế có chỗ dựa cao làm bằng lông ngựa, một tấm thảm bạc màu, một hàng sách trên kệ, trên mặt lò sưởi để quyển sách có khắc chữ “Sự đầu hàng của Burgoyne” và một con chó trắng đốm nâu giống span-nơn nằm trên tấm thảm lau chân màu xanh rêu bên cạnh. Trí óc nàng quay về ngôi nhà của ông Royall, nơi mà tất cả đều tươi mát, trong lành đầy mùi hương và đem so sánh ngôi nhà màu đỏ thì nơi đây quá nghèo khổ và chất phác.

“Tôi thuộc về nơi đây – tôi thuộc về nơi đây.” – nàng tiếp tục lặp lại câu nói cho riêng mình, nhưng những lời đó không có ý nghĩa gì cho nàng. Khuynh hướng bẩm sinh và thói quen đã làm cho nàng xa lạ với những người ở vùng đầm lầy – những người sống giống như thú vật trong hang ổ của chúng. Nàng ước gì nàng đừng đầu hàng sự tò mò của Harney mà mang anh ta đến đây.

Mưa làm nàng ướt đẫm, và nàng bắt đầu run lên dưới chiếc áo mỏng manh. Người đàn bà trẻ hơn ắt hẳn đã nhận thấy điều đó, vì thế bà ta vào phòng và trở lại với một cái tách mẻ miệng trong đó là nửa tách uýt ky đưa cho Charity. Charity lắc đầu nhưng Harney cầm lấy và đặt tách lên môi. Khi anh ta để tách xuống, Charity thấy anh rút ra một tờ một đô la, anh ta chần chừ một lúc, và rồi bỏ nó trở lại vào túi áo, nàng đoán rằng anh ta không muốn nàng thấy mình cho tiền những người mà nàng đã nói như là họ hàng của nàng.

Người đàn ông đang ngủ lúc lắc, nhấc đầu lên và mở mắt đờ đẫn nhìn Charity và Harney một lúc rồi lại nhắm mắt, đầu rũ xuống, nhưng gương mặt người đàn bà trở nên lo lắng. Bà ta nhìn ra cửa sổ rồi nhìn Harney. “Tôi nghĩ là cô cậu nên đi ngay bi fơ (bây giờ)” – bà ta nói. Chàng trai trẻ hiểu và đứng lên. “Cám ơn” – anh ta vừa nói vừa chìa tay ra. Bà ta dường như không chú ý đến cử chỉ đó, quay gót khi Harney mở cửa.

Mưa vẫn rơi, nhưng họ không còn nhận ra nó vì không khí trong lành giống như nhựa thơm quyện trên gương mặt họ. Những cụm mây nổi lên và vỡ ra, và giữa những rìa của chúng ánh sáng đổ xuống những thung lũng xanh xa xa. Harney tháo dây ngựa, họ chạy trong cơn mưa đã giảm và chẳng mấy chốc thì mặt trời ló dạng.

Trong một lúc lâu Charity im lặng và người đồng hành cũng không nói gì. Nàng len lén nhìn nghiêng anh ta, nó âm u hơn ngày thường, như thể là anh ta cũng bị ám ảnh bởi những gì mà họ đã thấy. Rồi nàng chợt mở miệng: “Những người ở đằng sau kia là loại người mà từ đó tôi đến. Tất cả những gì mà tôi biết thì họ có thể là họ hàng của tôi.” Nàng không muốn anh ta nghĩ nàng cảm thấy sầu muộn khi kể cho anh ta nghe về câu chuyên của mình.

“Ôi những sinh vật đáng thương!” – anh ta đáp lời – “Tôi tự hỏi tại sao họ xuống sống trong “cái lỗ” khốn khổ đó.”

Nàng cười mỉa mai: “Để tốt hơn cho họ chứ sao! Ở trên Núi thì tồi tệ hơn. Bash Hyatt lấy con gái của người nông dân mà từng là chủ ngôi nhà màu nâu. Tôi nghĩ, chính là người đàn ông bên lò sưởi đó.”

Harney dường như không tìm được gì để nói và nàng tiếp tục: “Tôi thấy anh rút ra một đô la để cho người đàn bà đáng thương đó. Nhưng sao lại cất lại vào túi?”

Anh ta đỏ mặt, và chồm mình ra phía trước để quất nhẹ vào một con ruồi đầm lầy đang đậu trên cổ con ngựa. “Tôi không chắc…”

“Có phải vì anh biết họ là họ hàng tôi và nghĩ tôi sẽ xấu hổ khi thấy anh cho tiền họ?”

Anh ta quay sang nàng với đôi mắt đầy vẻ trách móc. “Ôi, Charity!” Đó là lần đầu tiên anh ta gọi tên nàng. Nỗi thống khổ của nàng tuôn ra.

“Tôi không… tôi không xấu hổ đâu. Họ là người của tôi và tôi không xấu hổ về họ.” – nàng nức nở.

“Ôi em thân yêu…” – anh ta thì thầm rồi đưa tay choàng vai nàng, và nàng tựa vào anh ta, lau đi những giọt lệ khổ đau.

Khi họ đi quanh về Hamblin thì trời đã quá muộn, những ngôi sao xuất hiện trên nền trời trong xanh khi họ về đến thung lũng North Dormer và chạy thẳng về ngôi nhà màu đỏ.

Bình luận
Ads Footer