Một tiếng sau cuộc nói chuyện an toàn và hai chiếc cốc cà phê, Leo và tôi đang trên chuyến tàu N hầu như không có khách, đi về phía đầu Nam của Brooklyn. Chúng tôi vờ như đang trong hành trình công việc, nhưng những dư chấn ngầm ẩn, dù ở cấp độ nào đi nữa, đang bùng lên mạnh mẽ hơn khi chúng tôi không nói tới.
Khi tôi đếm số điểm dừng cho tới đại lộ Stillwell trên bản đồ tàu điện ngầm, ước lượng chúng tôi có khoảng một tiếng đồng hồ trên tàu, Leo cúi xuống thắt hai dây đôi giày thể thao màu đen của anh. Khi ngồi thẳng lại, anh nhìn tôi vẻ hoài nghi và nói, “Thật thế sao? Em chưa từng tới Coney Island?”
Tôi lắc đầu. “Chưa… Nhưng em có cảm giác như đến rồi vậy. Em nghĩ chắc từ phim và tranh ảnh.”
Leo gật đầu nói, “Đó cũng chính là cảm giác của anh về rất nhiều địa điểm.”
“Như chỗ nào?” tôi hỏi, bao giờ cũng tò mò về mọi suy nghĩ và cảm giác của Leo – bất kể nhỏ nhặt như thế nào, không chút liên quan tới chúng tôi ra sao.
“Như… công trình đá Stonehenge,” anh nói. “Ý anh là, ai mà cần tới chỗ đó một khi ta đã xem vài ba tấm ảnh chứ. Những phiến đá lớn trong một cánh đồng bát ngát. Tôi rõ quá rồi.”
Tôi bật cười với cái ví dụ ngẫu nhiên của anh rồi nói, “Nói em nghe về bài báo của anh đi. Anh viết chưa?”
“Rồi. Gần xong,” anh nói. “Vẫn cần chỉnh sửa chút nữa.”
“Chính xác thì bài báo viết về chuyện gì?”
“Ừm.. chắc có thể nói là về mâu thuẩn giữa cái cũ và cái mới ở Coney Island. Những đổi thay khôn cưỡng ắt sắp xảy ra.”
Tôi nhìn anh dò hỏi, nhận ra rằng với ai đó từng cố thuyết phục mọi người, kể cả bản thân rằng chuyến đi này là vì công việc, tôi biết gần như chẳng có gì về bài báo mà tôi chụp hình minh họa được. Hay quan trọng hơn, về Coney Island.
“Cái gì thay đổi?” tôi hỏi.
Leo mở chiếc túi đeo vai và lôi một tờ bướm từ trong đó ra, chỉ vào một bức ảnh chụp bãi biển từ trên cao. “Nói ngắn gọn nhé, một nhà đầu tư chính đã mua bốn hecta đất thuộc khu vực kỳ thú này và đặt kế hoạch tái tạo nó với hai tỷ đô – phân khu lại, xây dựng những khách sạn chọc trời, các tòa biệt thự, cả thảy chín cái sân… Một số người nói đó chính xác là điều Coney Island cần. Em biết đấy, đem lại sức sống mới cho một khu đã quá sập xệ… phục hưng ánh huy hoàng của ngày xưa.”
“Còn những người khác?”
“Những người khác có quan điểm hoài cổ hơn. Họ lo rằng việc xây mới sẽ động tới việc di dời người dân địa phương, làm lu mờ không gian cổ điển, phá hủy những cửa hàng và phương tiện truyền thống, và về căn bản là làm xói mòn nét hào hoa cổ kính của cái gọi là Vương quốc Năm xu.”
“Vương quốc Năm xu?” tôi hỏi khi tàu chúng tôi chầm chậm dừng lại ở Queensboro Plaza. Cửa mở, đón chừng mươi hành khách vào trong, tất cả bọn họ đều liếc về phía chúng tôi nhưng rồi chọn hàng ghế khác.
“Ngày trước, tàu điện đi Coney Island giá vé năm xu. Mọi trò chơi ở đó đều thu phí năm xu. Bánh mì kẹp xúc xích hiệu Nathan cũng tốn năm xu… Coney Island thực chất ban đầu được xây dựng làm resort cho người có của, nhưng đã nhanh chóng biến thành sân chơi cho tầng lớp người lao động, nơi họ chỉ cần năm xu để được giải thoát, thư giãn, quên đi mọi ưu phiền,” Leo giải thích, trong lúc tàu tiếp tục lao nhanh, lướt dưới sông Đông, về phía đường 59 và đại lộ Lexington. “Và anh nghĩ, trong rất nhiều phương diện, Coney Island giờ vẫn còn đem lại cảm giác như thế.”
“Anh đã phỏng vấn nhiều người chứ?” tôi hỏi.
Anh gật đầu nói, “Ừ. Anh ở đó mấy ngày, lang thang trên bờ biển, dạo xung quanh Astroland, và đi khắp đại lộ Mermaid, nói chuyện với người địa phương… những tay ‘lính thủy lão đời’ như cách họ tự xưng. Nghe vô khối chuyện đổi thay về chiếc cầu cảng và tất cả các trò chơi cũ.” Anh mỉm cười rồi tiếp, “Ai cũng có chuyện để kể về Lốc Xoáy cả.”
Có phải đó là trò vòng quay trên không?”
“Phải.”
“Anh đã chơi chưa?”
“Có… dạo còn nhỏ,” anh nói. “Và để anh nói cho em nghe… thứ đó thật cực kỳ. Có lịch sử tới bảy mươi mấy năm, làm bằng gỗ và chẳng đùa tí nào đâu… Anh thực tình đã có cuộc nói chuyện rất thú vị với tay quản lý Lốc Xoáy – một lão xăm mình xăm mẩy khá luống tuổi đã điều khiển vòng quay đó hơn ba mươi năm mà chưa một lần chơi trò đó.”
“Thôi nào,” tôi nói. “Thật thế được sao?”
Leo gật đầu.
“Ông ta sợ độ cao?”
“Không. Vẫn bảo ông ta trèo lên đó rất nhiều lần mà… chỉ là ông ta không hứng thú với cảm giác lao xuống.”
Tôi mỉm cười, nghĩ rằng đã biết bao nhiêu lần Leo đem lại cho tôi cảm giác thót người.
“Tóm lại dù sao thì… Coney Island nằm ở một giao lộ,” Leo nói, trông rất nghiêm trang. “Nơi cái cũ đối đầu với cái mới.”
“Và anh theo đội nào?” tôi hỏi. “Cũ hay mới?”
Leo cân nhắc câu hỏi của tôi trong chốc lát rồi nhìn tôi vẻ am hiểu. “Anh không biết nữa. Thay đổi có thể tốt… một đôi khi,” anh nói mập mờ. “Nhưng luôn thật khó khăn khi xóa bỏ đi quá khứ.”
Tôi không chắc chính xác ý anh là gì, nhưng tôi vẫn lí nhí vài lời đồng tình, trong khi đó đoàn tàu lắc lư suốt dọc đường, và chúng tôi lại rơi vào một khoảng thời gian thật dài lặng im với biết bao suy tư náo động.
Buổi chiều thật trống trải và chẳng hiểu sao không chút ấn tượng gì về xuân hạ thu đông khi tàu chúng tôi chui ra khỏi đường ngầm, lướt vào đại lộ Stillwell. Những đám mây xám như chì sầm sập trôi trên bầu trời báo hiệu cơn mưa sắp tới. Không thật sự lạnh, nhưng tôi vẫn cài dây thắt lưng áo gió và khoanh chặt hai tay trước ngực, đưa mắt nhìn quanh, ghi khắc trong trí nhớ lần đầu tiên được nhìn thấy khu vực trứ danh này của New York. Của nước Mỹ. Tất cả chính xác như tôi đã mường tượng về khung cảnh nơi đây trong suốt mùa trầm lặng nhất cả năm này – ảm đạm, úa tàn, hoang vắng – nhưng vẫn lôi cuốn, đặc biệt. Chất liệu cho những bức ảnh vĩ đại. Khung nền cho những kỷ niệm không bao giờ phai.
“Chúng ta đến rồi đây,” Leo nói, trông có vẻ thản nhiên.
“Vâng,” tôi nói.
“Ra biển trước nhé?” Leo hỏi.
Tôi gật đầu, rồi chúng tôi sải bước, sánh vai nhau, đi về phía cầu cảng. Khi tới nơi, chúng tôi kiếm ghế băng và ngồi xuống, nhìn đăm đắm vào bãi cát lặng tờ trải dài bát ngát và những cơn sóng vô sắc trong màn tối. Tôi rùng mình bởi cái se lạnh của gió, cái thê lương của cảnh trí, và trên hết cả, bởi Leo đang bên cạnh tôi.
“Đẹp quá,” cuối cùng tôi lên tiếng, ghìm hơi thở.
Gương mặt Leo sáng bừng lên – như thể bản thân anh là một tay ‘lính thủy lão đời’ có biết bao chuyện của chính mình để kể. Bỗng nhiên tôi tưởng tượng ra hình ảnh anh hồi còn nhỏ trên đúng bãi biển này, vào giữa mùa hè, với xô xẻng trên tay, rồi sau đó lại tới hình ảnh anh thời niên thiếu, đang chia nhau chiếc kẹo bông xanh với một cô gái tết bím đuôi sam, rồi đang hết sức cẩn thận nhắm bắn trúng đích với hy vọng thắng được chú kỳ lân nhồi bông để tặng nàng.
Anh hếch đầu lên và nói, “Thật sao?”
Tôi gật đầu nói, “Vâng. Nơi đây… quá đặc sắc.”
“Anh vui vì em nghĩ thế,” anh nói, luồn tay qua mái tóc. “Anh thật sự vui vì em nghĩ thế.”
Chúng tôi giữ nguyên trạng thái ấy một lúc lâu – khẽ dựa vào thành ghế, trò chuyện cùng nhau giữa không gian đó, quan sát mấy người lưa thưa ra đây chơi trong cái ngày kỳ lạ thế này – cho đến khi, tôi lẳng lặng lôi máy ảnh khỏi túi, đi ra giữa những thanh chắn ngăn các cầu cảng với bãi cát, và hướng về phía biển. Tôi chụp mươi bức ảnh vô mục đích, cảm thấy bản thân hoàn toàn thư giãn, đó là cách tôi luôn làm trước khi thực sự bắt đầu công việc. Tôi chụp trời, chụp cát, và chụp biển. Tôi chụp một bà trung niên có mái tóc dài mặc chiếc áo choàng vải tuýt màu nâu, thầm nghĩ rằng bà ấy không tiều tụy đến mức như kẻ lang thang, nhưng chắc chắn đang đau khổ với những chuyện không may xảy ra, buồn bã vì điều gì đó. Tôi quay người lại chụp dãy hàng mặt tiền chạy dọc cầu cảng, hầu hết đã đóng cửa, một số bỏ hoang hoàn toàn, và chụp một đàn hải âu đang quây tròn quanh một chiếc hộp sọc trắng đỏ đựng bắp rang bơ để tìm kiếm những hạt còn sót lại. Rồi, với ý tưởng chợt nảy ra sau chót, tôi chụp ảnh Leo, lúc này vẫn đang ngả lưng vào chiếc ghế dài, hai bàn tay gài lại sau đầu, khuỷu tay để lộ ra, quan sát và chờ đợi.
Anh khẽ vẫy tay và nháy mắt, nhếch môi cười khi tôi đi lại chỗ anh. “Bức ảnh cuối là về gã giữ chỗ đấy,” anh nói, khi ấy tôi nhớ lại mấy tấm hình chụp anh trên băng ghế trong công viên Trung tâm, nhớ lại Margot đã nói về chúng với vẻ khinh khi, gọi anh là kẻ thiếu tự nhiên và bảnh chọe. Tôi nghĩ lại ngày hôm ấy, nhận ra rằng cô đã sai về khoảnh khắc đó, được lưu giữ lại trên tấm ảnh. Cô đã sai về rất nhiều điều.
Tôi quàng chiếc máy ảnh qua vai và ngồi xuống trở lại, thở một tiếng nghe buồn bã hơn tôi dự định.
Leo nhìn tôi với ánh mắt vờ nghiêm nghị trong khi thúc khuỷu tay sang tôi và bảo, “Nhớ điều anh đã nói chứ, Dempsey? Mọi người đến đây để quên đi muộn phiền.”
Dempsey, tôi nghĩ, ngón tay cái bên trái với lên vuốt ve chiếc nhẫn cưới. Tôi cố nở nụ cười và nói, “Phải,” trong khi ấy chúng tôi ngắm nhìn những con sóng tan ra, tan ra mãi. Sau một lúc, tôi hỏi Leo thủy triều đang lên hay xuống.
“Lên,” anh trả lời ngay khiến tôi rất ấn tượng, đúng kiểu tôi vẫn thấy ấn tượng mỗi khi mọi người – đặc biệt đàn ông – biết từ trong bản năng họ đang huớng về đâu.
“Sao anh có thể chắc thế?” tôi hỏi, nghĩ rằng chúng tôi chưa quan sát đủ lâu để nhận ra hướng con nước.
“Không thấy cát ướt,” Leo nói, trong lúc tiếng sấm ầm ầm lên phía xa. “Nếu nước xuống, chắc chắn phải có một dải cát ướt.”
“Ồ, đúng vậy,” tôi nói, gật đầu. Rồi nói tiếp, “Anh biết gì không?”
“Gì cơ?” Leo nói, gương mặt anh lóe lên đầy mong đợi – như thể anh đã sẵn sàng cho một lời tự thú lớn lao, hoặc có thể một điều gì đó sâu sắc.
Tôi mỉm cười và nói, “Em đang chết đói.”
“Anh cũng thế,” anh nói, cười tươi. “Bánh mì xúc xích nhé.”
“Đây là quê hương của xúc xích, phải không?” tôi nói, nhớ lại một mẩu lịch sử của Coney Island mà tôi đã lượm lặt được đâu đó. Có thể từ chính Leo, rất nhiều năm trước.
“Chính xác,” Leo mỉm cười.
Chúng tôi đứng lên và chậm rãi đi trở lại góc giao nhau của đại lộ Stillwell và đại lộ Sturf, nơi khởi nguồn của hiệu xúc xích Nathan, chỗ mà theo Leo là đã được xây dựng từ năm 1916. Chúng tôi bước vào trong, trông thấy một hàng người dài hơn ta tưởng vào lúc gần hai giờ chiều trong một ngày trái mùa du lịch thế này, cho dù có vì hãng xúc xích nổi tiếng bậc nhất thế giới chăng nữa. Tôi chụp mấy bức ảnh trong tiệm ăn, một số thực khách, và người đàn ông ướt đẫm mồ hôi đứng sau bếp nướng, khi ấy Leo hỏi tôi muốn ăn gì.
“Một bánh mì xúc xích,” tôi nói, nhìn anh bằng ánh mắt hiển- nhiên- rồi.
“Có thể rõ hơn được không?” Leo hỏi, miệng cười thật rộng. “Một chiếc thập cẩm? Kẹp mỗi xúc xích? Có nước xốt? Khoai tây chiên?
“Bất kỳ loại gì mà anh ăn,” tôi nói, xua tay từ chối lựa chọn.
“Bánh mì xúc xích pho mát, khoai tây chiên, root beer,” Leo quyết định dứt khoát.
“Tuyệt vời,” tôi nói, nhớ lại rằng anh luôn rất yêu thích loại nước ngọt đó.
Lát sau, khi Leo đã thanh toán xong và tôi đã lấy đủ khăn ăn, ống hút, các gói mù tạt và nước xốt cà chua nấm, chúng tôi chọn một bàn gần cửa sổ hướng ra ngoài đường, ngay lúc ấy trời đổ mưa.
“Lựa chọn thời điểm tuyệt vời đấy,” Leo nói.
Tôi nhìn qua chiếc bàn sang anh, trong khi bỗng nhiên mường tượng ra hình ảnh Andy đang ngồi ở bàn làm việc, mặc vest và cà vạt. Tôi lấy làm ngạc nhiên trước sự đối lập giữa hai thế giới ấy – một quán bánh mì xúc xích ở Brooklyn và một văn phòng luật sư sáng bóng ở Buckhead. Tôi thậm chí còn ngạc nhiên hơn với sự đối lập giữa hai người đàn ông ấy – cái lối mà mỗi người gây rung động trong tôi.
“Không hẳn,” tôi nói, níu giữ ánh mắt anh. “Lựa chọn thời gian cực kỳ chết tiệt thì có.”
Leo ngước mắt nhìn lên từ món khoai tây chiên xắt khúc của anh, đầy ngạc nhiên. Rồi anh nhặt một miếng khoai, chỉ vào tôi, và nói, “Em.”
“Không. Anh,” tôi nói.
“Em,” anh lại nói, cả quyết.
Đó chính xác là lối chúng tôi đã thường trò chuyện – thứ ngôn từ ẩn ý của chúng tôi, dường như vô nghĩa, nhưng lại thấm đầy ý nghiã. Đó là một lối mà tôi chưa bao giờ nói với Andy – người luôn quá rõ ràng, thẳng thắn. Tôi quyết định, ít nhất là lần thứ một trăm trong ngày hôm nay, rằng không có lối nào hay hơn lối nào; chỉ đơn giản là chúng khác nhau.
Leo và tôi đã kết thúc bữa trưa trong im lặng hoàn toàn. Rồi, không hề lưỡng lự, chúng tôi lại bước ra ngoài vào màn mưa lây rây nhè nhẹ, lang thang qua lại các đại lộ Surf, Neptune và Mermaid. Leo giương ô cho tôi trong khi tôi chụp vô số ảnh. Những tấm ảnh về các khu trò chơi đã đóng cửa. Về Lốc Xoáy trứ danh và Vòng quay Thần kỳ kinh điển, lớn đến phi tưởng. Về trò bóng rổ ba chọi ba. Về những chỗ đất trống bỏ hoang lác đác rác rưởi. Về con người – một ông bán thịt, một cô thợ may, một anh chàng làm bánh.
“Giống như vườn cổ tích ấy nhỉ,” tôi nói.
“Ừ. Chỉ khi chúng ta có thể tìm thấy một tay thợ làm giá để nến,” anh nói.
Tôi bật cười, để ý thấy hai cô gái đang xem bảng giá trên cửa sổ của một hiệu xăm mình.
“Ohh. Tớ thích hình hoa lan,” một cô nói. “Nó trông cực tuyệt.”
“Ừ… Nhưng tớ thích hình con bướm hơn,” cô còn lại nói. “Mình xăm lên vai nhé? Màu tím thì sao?”
Tôi chụp hình họ, thầm nghĩ, Đừng làm thế. Rồi một ngày kia sẽ hối tiếc đấy.
Trời nhá nhem tối ở Coney Island, và cuối cùng tôi đã cảm thấy thỏa mãn, ít nhất là về những tấm hình. Mưa đã tạnh, mây cũng tan theo hết, hứa hẹn một đêm mùa thu hanh khô hiu gió. Leo và tôi trở lại chiếc ghế dài của chúng tôi, buồn , mệt và lạnh. Chúng tôi ngồi bên nhau thậm chí còn sát hơn trước, anh bất ngờ quàng tay qua vai tôi trong một cử chỉ mang lại cảm giác vừa thoải mái vừa lãng mạn. Tôi cố chống lại nỗi khao khát được ngã đầu lên vai anh, và nhắm mắt lại, nhận ra rằng khỏanh khắc này sẽ dễ dàng hơn rất nhiều nếu tôi có thể phân loại cảm xúc của mình ngăn nắp hơn nữa. Nhưng nó không đơn giản hay rõ ràng như thế – và tôi tự hỏi đã có bao giờ mọi điều đơn giản rõ ràng hơn khi mà đó là chuyện của trái tim.
“Em đang nghĩ gì thế?” Leo nói, hơi thở ấm áp của anh phả trên tóc tôi.
Tôi đi sâu vào sự thật. “Em đang nghĩ về cái ngày tháng Mười hai năm ấy… khi anh trở lại,” tôi nói nhẹ nhàng.
Leo lại thở, lần này sát cổ tôi, ký gửi một đợt sóng dại khờ cuộn lên khắp chân tay tôi.
“Em ước gì em đã biết,” tôi nói.
“Anh cũng ước gì em đã biết,” Leo nói. “Anh ước gì anh đã biết điều đó có thể tạo nên một sự khác biệt.”
“Nó hẳn đã tạo nên một điều khác biệt,” cuối cùng tôi xác minh, trong lòng dấy lên biết bao tiếc nuối và cay đắng, cảm giác tội lỗi và khát khao.
“Nó vẫn có thể khác đi mà,” Leo nói, đặt tay lên cằm tôi, xoay lại để nhìn sâu vào mắt tôi.
“Leo… Em kết hôn rồi…” tôi nói, khẽ khàng quay mặt đi, nghĩ về Andy, những nguyện thề của chúng tôi. Tôi yêu anh biết bao nhiêu, dù cho tôi không yêu mọi thứ trong đời sống của chúng tôi. Dù cho tôi đang ở đây ngay lúc này.
Bàn tay Leo rơi xuống. “Anh biết điều đó, nhưng…”
“Nhưng sao?” tôi hỏi, kiệt sức với quá nhiều kiềm chế, suy xét miên man, băn khoăn, dò ý.
“Nhưng anh không cưỡng nổi… mong muốn lại được cùng em,” anh nói.
“Bây giờ? Đêm nay?” tôi hỏi, đầy bối rối.
“Phải. Đêm nay,” Leo nói. “Và ngày mai… Và ngày sau đó…”
Tôi hít thở mùi hương da thịt anh và gọi tên anh, không chắc mình đang kháng cự hay đồng thuận.
Anh lắc đầu, đặt ngón tay lên môi tôi, thì thầm, “Anh yêu em, Ellie.”
Đó là một lời tuyên bố, nhưng nghe giống như một lời hứa hơn, và khi trái tim vỡ òa, tôi không cưỡng được mình nhắm mắt và nhắc lại điều tương tự.
:yeah:
Cả thế giới tan biến khi tôi và Leo thầm thì trong một góc toa điện ngầm đông như nêm, uốn lượn dưới lòng đất từ Brooklyn xuyên qua Manhattan và quay trở lại Queens. Hành trình của chúng tôi trôi qua thật nhanh y như cảm giác thường có khi bao giờ lượt về cũng nhanh hơn lượt đi – và thậm chí còn nhanh hơn nữa bởi nỗi lo sợ cùng khao khát.
Tôi biết mình đang hành động sai lầm, yếu đuối, thiếu tự vệ, nhưng tôi vẫn không sao dừng lại được, kích động nỗi phẫn nộ của mình với một danh sách những trách móc nặng nề: Andy không hiểu cảm giác của tôi. Thậm chí tệ hơn, anh còn không buồn cố gắng để hiểu cảm giác của tôi. Anh đã rời bỏ tôi đêm qua. Anh không hề gọi cho tôi hôm nay và dịu bớt thái độ của anh chút nào. Anh là người đã vạch ra giới hạn. Anh là người dường như quan tâm đến gia đình anh, quê hương, công việc, và mọi thứ anh muốn hơn là quan tâm đến tôi. Nhưng có lẽ quan trọng nhất, bao quát trên mọi điều khác, anh không phải là Leo. Anh không phải là người chẳng giống bất kỳ ai, kể từ ngày gặp gỡ đã có thể làm cho tôi rối tung đảo lộn hoàn toàn – dù tốt đẹp hay tồi tệ hơn.
Vậy nên chúng tôi ở đây. Quay trở lại cảm giác chúng tôi đã buông lơi trên chuyến bay đêm đó, ngón tay đan vào nhau đầy khao khát. Tôi không chắc chuyện gì sẽ nảy nở từ đây, nhưng tôi biết rõ rằng tôi sẽ sống thật với chính mình, với Andy, và với Leo. Tôi sẽ đi theo trái tim, dù rằng nó mách lối tới chốn nao. Tôi nợ bản thân mình điều đó. Tôi nợ tất cả mọi người điều đó.
Khi tàu tới điểm dừng gần khu nhà Leo, chúng tôi vai kề vai bước đi trên sân ga tráng xi măng, một nơi tôi còn nhớ rõ như in. Máu chảy rần rật trong tôi, nhưng tôi cảm thấy bình yên lạ thường. Trời đêm nay thật phong quang đẹp đẽ, giá chẳng phải ở chốn thị thành thì hẳn đã có thể thấy muôn triệu ánh sao lung linh, và khi chúng tôi bước xuống bậc tam cấp, lại thêm biết bao kỷ niệm về những đêm y như đêm nay ùa về trong tôi. Tôi có thể nói rằng Leo cũng đang nghĩ về những năm tháng đó, khi anh cầm tay tôi kéo tôi bước ra khỏi nhà ga với một động tác đầy vẻ quyến rũ. Cả hai chúng tôi lặng thinh cho tới khi rẽ vào khu nhà anh và anh hỏi tôi có lạnh không.
“Không đâu,” tôi nói, nhận ra mình đang run – nhưng không phải vì lạnh.
Leo liếc nhìn sang phía tôi, rồi cầm lấy tay tôi, ngay khi đó điện thoại của tôi reo, rung lên trong túi áo khoác, lần đầu tiên trong suốt cả ngày. Hai chúng tôi vờ như không nghe thấy, rảo bước nhanh hơn, hầu như thể bước chân vội vàng của chúng tôi có thể xua tiếng chuông đi. Cuối cùng điện thoại tắt thật, nhưng thêm vài bước nữa, nó lại reo, chẳng hiểu vì sao có vẻ như kêu to hơn, dồn dập hơn. Tôi thả tay anh ra, thọc tay vào túi lấy điện thoại, vừa hy vọng vừa lo sợ rằng đó là Andy.
Nếu em đi, đừng quay về, tôi như nghe giọng anh nói. Tôi nín thở khi nhận ra tên Suzanne sáng lên trên màn hình điện thoại, cảm thấy cùng lúc tràn ngập cả sự nhẹ nhõm lẫn thất vọng. Leo lặng lẽ nhìn đi chỗ khác, thế nên tôi quyết định không trả lời, thay vì đó trượt lại chiếc di động vào lại trong túi và cũng giữ yên bàn tay mình trong đó luôn.
Lúc này chúng tôi chỉ còn vài bước nữa là tới tam cấp lên sảnh, đột nhiên một cơn sóng cồn của cảm giác tội lỗi dừng chân tôi lại. Leo dừng bước bên tôi, nhìn sâu vào mắt tôi, và nói, “Gì thế em?”
Tôi nhún vai khẽ mỉm cười với anh, như thể tôi không có câu trả lời. Nhưng thực tình điều tôi đang nghĩ là: ước gì mình có thể làm ngưng đọng khoảnh khắc này, bằng cách nào đó trì hoãn quyết định cuối cùng của tôi, và cứ lơ lửng mãi ở đây trong thế cân bằng giữa hai địa điểm, hai thế giới, hai người yêu.
Chúng tôi bước lên bậc tam cấp, và tôi đứng sau Leo khi anh mở khóa cửa. Khi vào đến bên trong, mùi hương thân thuộc của quá khứ lại tấn công tôi dồn dập. Lòng tôi quặn lên, hệt như cái đêm khi vụ án ngã ngũ, đêm đầu tiên chúng tôi bên nhau ấy, cảm giác chếnh choáng y như vậy, dù rằng chẳng hề uống rượu. Bất cứ điều gì, mọi điều, đều có thể xảy ra. Một chuyện gì đó ắt sẽ xảy đến. Tôi đặt thiết bị chụp ảnh và túi xách xuống lối vào phòng khách, Leo cũng làm như vậy với chiếc túi của anh. Chúng tôi lặng lẽ bước lại bên trường kỷ, nhưng không ngồi. Thay vì đó, Leo quẳng chùm chìa khóa của anh lên mặt bàn nước và với tay bật một ngọn đèn nhỏ đặt ở cuối bàn tỏa ra ánh sáng đỏ nhạt nhòa. Leo liếc nhìn đồng hồ đeo tay và nói, “Chỗ đặt trước của chúng ta còn hai mươi lăm phút nữa.”
“Ở đâu?” tôi hỏi, mặc dù chuyện đó thực sự không quan trọng.
“Một quán Ý nho nhỏ. Không xa đây lắm,” anh ngập ngừng, gần như căng thẳng. “Nhưng chúng ta phải nhanh mới kịp… hoặc là anh có thể gọi hẹn lại muộn hơn một chút?”
Vì lý do gì đó, sự căng thẳng của Leo khiến tôi bình tâm lại, và trong khi cởi áo khoác, phủ nó lên tay ghế, tôi liều lĩnh nói điều tôi biết chắc anh muốn tôi sẽ nói, “Em không muốn đi đâu cả.”
Anh nói, “Anh cũng thế,” và rồi vươn người, chìa bàn tay mong mỏi tay tôi. Tôi đặt tay lên tay anh và ngã vào lòng anh, hai tay tôi ôm vòng lấy anh. Đôi vai anh, ngực anh, cánh tay anh – mọi nơi đều cảm giác thật ấm áp, vững vàng, mạnh mẽ – thậm chí còn hơn cả trong trí nhớ tôi. Tôi nhắm mắt khi chúng tôi ghì xiết lấy nhau và rồi chầm chậm lắc lư theo tiếng nhạc tưởng tượng – một bản ballad u buồn day dứt, thứ nhạc có thể khiến ta vô tình bật khóc ngay cả khi ta không hề muốn vậy.
Anh thì thầm tên tôi. Tôi cũng khẽ gọi tên anh, đôi mắt chứa chan.
“Anh đã đuổi theo em trong mọi giấc mơ bao năm giờ, Ellie,” anh nói. Chính là như thế. Nếu lời ấy thốt ra từ ai đó khác thì hẳn sẽ nghe giả tạo. Nhưng từ Leo, Những lời ấy là áng chân tình trong bản ballad đậm chất sử thi của riêng chúng tôi, viết lên từ đáy con tim.
Chuyện này đang thực sự diễn ra đấy chứ? Tôi băn khoăn và rồi đặt câu hỏi đó với anh.
Leo gật đầu, thì thào, “Phải.”
Tôi nghĩ về Andy – tất nhiên tôi nghĩ về Andy – nhưng tôi vẫn chầm chậm ngước đầu lên, ngay khi cảm thấy Leo đang cúi xuống. Gương mặt chúng tôi nghiêng nghiêng đụng chạm nhẹ nhàng. Chúng tôi áp má lên má, rồi mũi lên má, rồi mũi lên mũi. Tôi ngồi thật yên, lắng nghe tiếng thở của anh, cả hai chúng tôi cùng hổn hển. Dường như một lúc rất lâu trôi qua trước khi bờ môi dưới của anh lướt qua môi trên của tôi, và chúng tôi khẽ điều chỉnh lần cuối, giờ đây miệng chúng tôi sáp hẳn vào nhau, môi chúng tôi hé mở. Rồi, khi chúng tôi làm điều phi tưởng khôn cưỡng ấy, đầu óc tôi trở nên trống rỗng, và mọi thứ và mọi người bên ngoài căn hộ nhỏ xíu ở Queens này đều biến tan tất thảy. Chỉ còn lại hai chúng tôi níu giữ một điều gì tôi khó gọi được tên.
Cho đến khi điện thoại tôi reo lần nữa.
Tiếng chuông khiến tôi giật nảy người như thể có giọng nói thực trong phòng. Giọng nói của Andy. Nhưng khi đút tay vào túi áo khoác, tôi lại thấy tên Suzanne, và một tin nhắn tích dấu khẩn cấp. Vì lý do gì đó, tôi hoảng sợ, tưởng tượng có chuyện xảy ra với bố, hình dung ra rõ rành rành dòng chữ: Bố chết. Thay vì đó, tôi đọc được yêu cầu của bà chị: Gọi chị ngay. Tôi kéo xuống, chờ đợi có thêm điều gì, nhưng tất cả tin nhắn chỉ có vậy.
“Mọi chuyện ổn chứ?” Leo hỏi, liếc xuống điện thoại của tôi và rồi nhanh chóng quay đi, như thể anh biết rằng dù trong điện thoại có đề cập đến điều gì thì cũng không phải chuyện của anh. Dù thế nào cũng không.
Tôi gập điện thoại lại và lắp bắp, “Em… Em không biết.”
“Andy?” Leo nói.
Tôi chùn lại, lòng nhói cảm giác tội lỗi khi ngập ngừng lên tiếng, “Không. Chị em. Em nghĩ… Em nghĩ có lẽ em nên gọi lại cho chị ấy… Em xin lỗi…”
“Không sao,” Leo nói, xoa xoa lên cằm và lùi lại hai bước. “Anh sẽ ở… loanh quanh thôi.” Anh chỉ về phía phòng ngủ. Và rồi quay người bước khỏi gian khách. Tôi cố cưỡng lại khao khát theo chân anh, mong mỏi đến kinh khủng được ngồi trên giường anh, quan sát anh ngắm nhìn mình.
Tôi hít thở sâu vài hơi và thả người xuống trường kỷ, ấn phím gọi nhanh số của Suzanne, thầm nghĩ khoảnh khắc đó có thể bị gián đoạn, nhưng cảm xúc thì còn nguyên.
Chị tôi trả lời ngay ở lần đỗ chuông đầu tiên và nói chính xác điều tôi biết chị sẽ dùng để bắt đầu câu chuyện. “Em đang ở đâu?”
“Em đang ở New York,” tôi nói, dấy lên cảm giác lảng tránh mà tôi không hề có trong những khoảnh khắc trước khi hôn Leo.
“Chỗ nào?”
“Queens,” tôi đáp với vẻ có lỗi.
“Ellen. Em ở chỗ nào?” chị gặng hỏi.
“Em đang ở nhà Leo… Bọn em vừa về sau buổi chụp hình… Nhớ chuyện đó chứ? Ở Coney Island ấy?” tôi nói, tự hỏi tại sao mình không thẳng thắn hơn với chị – một người luôn ở bên cạnh tôi. Ngay cả trước khi có chuyện để cần người bên cạnh.
“Chuyện gì rồi?” chị nói, giờ thì rõ ràng là đang khích động. “Không có gì,” tôi nói, nhưng giọng tôi cho thấy mọi thứ đã xa hơn thế, vậy nên chị bật tiếp ngay lập tức.
“Em đã hôn anh ta?” chị nói, nghe quá lỗ mãng, cho dù đó là Suzanne.
Tôi ngần ngừ, để chị tự cảm nhận qua sự im lặng của tôi. Chị hiểu, và rồi tiếp, “Em đã… ngủ với anh ta?”
“Không,” tôi nói với giọng không có vẻ gì là oan uổng hẳn rằng bởi ý nghĩ đó đã lướt qua đầu tôi nhiều hơn một lần trong mấy giờ qua, thậm chí là mấy phút, mấy giây liền đây.
“Nhưng em đã hôn anh ta?” chị nói.
“Phải,” tôi nói – và có điều gì đó trong lời xác thực xướng to lên ấy khiến mọi điều trở nên rất thật. Những cảm nhận của tôi cho Leo. Sự không chung thủy của tôi với chồng. Cuộc hôn nhân của tôi còn tồn tại đó.
“Em cần phải rời khỏi đó,” chị nói, giọng tràn ngập lo lắng và khẩn khoản. “Rời khỏi đó ngay tức khắc.”
“Suzanne… không đâu,” tôi nói.
Chị chậc lưỡi rồi nói, “Em sẽ hối tiếc đấy.”
“Có thể là không.”
“Sẽ có đấy, Ellen… Chúa ơi, chị không muốn em phải hối tiếc. Chị không muốn em phải ân hận.”
Tôi đang nghĩ rằng điều duy nhất mà tôi tiếc nuối về khoảnh khắc này là tôi đã gọi lại cho chị – hay là rằng từ đầu tôi đã có một chiếc di động, nhưng tôi nói, “Andy và em đã cãi nhau kịch liệt tối qua. Mọi thứ quá bầy nhuầy.”
“Okay. Chị biết chuyện đó thế nào,” chị nói, ít nhất là giả vờ kiên nhẫn, “nhưng em đang… làm mọi thứ tệ đi quá đáng đấy.”
Điều đó, tôi không thể chối. Thay vào đó, tôi viện đến một lý cớ trẻ con. “Anh ấy rời bỏ em,” tôi nói. “Đêm qua. Chắc hẳn anh ấy đã sang nhà cô em gái…”
Suzanne cắt lời. “Không. Cậu ấy không sang nhà em gái. Cậu ấy tới khách sạn… và gọi điện cho chị gái của em.”
Tôi chớp mắt, rồi nhìn chằm chặp vào ngọn đèn đỏ đục cho tới khi tôi nhìn tấy những chấm bi lốm đốm trên bức tường trắng phía bên trên. “Anh ấy đã gọi cho chị?” cuối cùng tôi thốt lên.
Suzanne bảo đúng thế, sáng nay từ khách sạn Ritz, và rồi lại gọi lại, khoảng ba mươi phút trước. Giọng chị như nhòa dần khi tôi tưởng tượng ra chị sẽ chốt câu – trong khi em đang hôn Leo.
“Anh ấy nói gì?” tôi hỏi, cảm thấy đau khổ, tê dại.
“Cậu ấy buồn lắm, Ell. Cậu ấy sợ, và cậu ấy muốn nói chuyện với em.” Có chút gì như lên án thoảng trong giọng chị, nhưng chủ yếu là lo lắng – và cả phần nào buồn bã.
“Không, anh ấy không muốn đâu. Anh ấy không gọi cho em. Không một lần.”
“Ừ, cậu ấy đau khổ, Ell… cậu ấy thực sự đau khổ… và lo sợ.”
“Anh ấy nói với chị thế?”
“Ừ. Đại loại vậy.”
“Chị đã nói gì với anh ấy?” tôi hỏi, không chắc muốn nghe điều gì từ chị.
“Chị bảo cậu ấy đừng lo lắng… rằng thì em lên New York vì công việc thôi – không phải vì Leo đâu – và rằng cậu ấy phải tin em chứ.”
Tôi nhìn xuống đôi giày vẫn còn dính bẩn vì mưa, tự hỏi liệu chuyện có thành ra như thế này nếu Andy không bỏ đi, không để lại mẩu giấy nhắn trên quầy bếp. Đây là một kết quả được tiên liệu? Hay không phải vậy?
“Được rồi,” Suzanne nói. “Chị không nói rằng Andy hoàn hảo. Còn xa lắm. Và em biết chị cảm thấy thế nào về cái trò nhảm nhí ưa điều khiển, thích làm trung tâm của Margot rồi đấy. Và, Chúa ơi, chị vẫn không thể tin nổi cô ta đã không nói với em chuyện Leo cố tìm gặp em… Nhưng…”
“Nhưng sao?” tôi hỏi.
“Nhưng họ là gia đình của em. Và em thật may mắn khi có… một gia đình.”
Tôi nghĩ về bố, về sự thu mình của bố trong cuộc đời và trong đám con cái của Sharon. Rồi tôi nghĩ về Vince – chuyện anh ta từ chối hứa hẹn với chị gái mình ra sao và đó chắc hẳn là một miền đất sống hết sức mệt nhọc đến thế nào. Và, tất nhiên, tôi nghĩ về mẹ. Tôi luôn nghĩ về mẹ.
“Chị cũng là gia đình em mà,” tôi nói, bất thần cảm thấy có lỗi.
“Chị biết,” chị nói. “Và em là gia đình chị. Nhưng thôi nào, Ell. Em biết ý chị mà… Họ là một gia đình Norman Rockwell (1) thực thụ mà. Và họ gắn bó cùng em trong mọi thứ. Họ xem em như một người trong số họ. Em thuộc về họ.”
Tôi nhắm mắt, nghĩ đến khi ông Graham nâng cốc chúc mừng tôi trong ngày cưới, nói những lời ám ảnh ấy. Nghĩ đến chuyện Stella đã đối xử với tôi như con gái ra sao và Margot đã xem tôi như chị em gái thế nào – thậm chí trước cả khi tôi cưới Andy.
“Em có thực sự muốn vứt bỏ tất cả điều đó?” Suzanne hỏi, giọng nhẹ nhàng và cẩn trọng như người mẹ. “Em có muốn thôi Andy?”
“Em không biết,” tôi nói, tính thực tế của vấn đề này đang dần thấm thía, trở nên khắc nghiệt, đáng sợ. Và lúc này tôi không muốn quyết định điều gì dựa trên nỗi sợ hãi.
Một phút im lặng trôi qua và rồi Suzanne lên tiếng, “Chị có thể hỏi em một câu không?”
“Tất nhiên rồi,” tôi nói.
Suzanne im lặng rồi tiếp tục, “Em có yêu cậu ấy?”
Tôi không chắc ý chị là ai – Andy hay Leo – nhưng dù thế nào, tôi trả lời chị rằng có, tôi yêu.
“Vậy thì đừng làm thế,” chị nói, rõ ràng là đang ám chỉ Andy.
“Suzanne,” tôi nói, nhìn qua phòng khách về phía Leo đang chờ. “Không đơn giản thế đâu.”
“Có, có đấy,” chị nói, cắt ngang lời tôi. “Nghe này, chuyện có vậy thôi. Mọi thứ thực sự giản đơn như thế.”
(1) Norman Rockwell (1894 – 1978) là một họa sĩ vẽ tranh minh họa nổi tiếng người Mỹ. Ông đã vẽ bộ tranh Gia đình Norman Rockwell, nội dung chủ đạo là ca ngợi sự ấm áp sum vầy của đời sống gia đình Mỹ.