NÊN sao chép, chia sẻ, KHÔNG NÊN thương mại hoá.

A Knight In Shining Armor

Chương 5

Tác giả: Jude Deveraux
Ads Top

Khi Nicholas tìm thấy căn phòng trên gác nơi anh sẽ ngủ đêm lại, anh bắt đầu kinh hoảng. Căn phòng đó nhỏ, với hai cái giường trông cứng đơ, bé tẹo, chẳng có mảnh vải vóc nào treo quanh chúng hết, và những bức tường thì trơ trụi. Nhưng khi tới gần hơn để kiểm tra, anh thấy mấy bức tường được vẽ hàng ngàn những bông hoa nhỏ màu xanh. Sau khi suy đi tính lại, anh quyết định rằng với vài đường viền và một vài bức vẽ theo bố cục chúng trông cũng ổn thôi.

Có một cửa sổ được lắp loại kính thần kỳ, và có một tấm vải vẽ một mặt treo trên nó. Có những khung tranh trên tường, và khi anh chạm vào một cái, anh cảm thấy nó là kính–trong đến nỗi anh khó lòng có thể nhìn thấy được. Một trong những bức tranh khá là phóng đãng, vẽ hình hai người đàn bà khỏa thân ngồi trên một tấm khăn trải bàn gần hai người đàn ông mặc đồ đầy đủ[14]. Không phải là Nicholas không thích bức tranh, nhưng anh không thể chịu đựng được khi nhìn thấy là một thứ đáng xấu hổ như vậy được trưng bày quá lộ liễu. Anh xoay bức tranh úp mặt vào tường.

Có một cánh cửa dẫn đến một cái tủ đứng, nhưng chẳng có cái ngăn kéo nào trong nó hết. Chỉ có duy nhất một thanh tròn chạy từ mặt này đến mặt kia, với cùng một kiểu dáng bằng thép mà anh đã nhìn thấy trong các cửa hàng quần áo được treo từ thanh này. Có một cái tủ nhiều ngăn trong căn phòng này, nhưng theo kiểu anh chưa bao giờ từng nhìn thấy trước đây. Toàn bộ nó chứa đầy những ngăn kéo! Anh đã cố thử, nhưng phía nắp cái tủ không nhấc lên được. Anh lôi các ngăn kéo ra, từng cái từng cái một và chúng hiệu quả một cách phi thường.

Một lúc sau, Nicholas bắt đầu tìm cái bô đi tiểu trong phòng, nhưng chẳng cái nào được tìm thấy tại bất cứ nơi đâu trong căn phòng hết. Cuối cùng, anh xuống gác và ra khu vườn phía sau để tìm nhà xí, nhưng ngoài đó cũng chẳng có gì.

“Mọi thứ phải thay đổi nhiều đến mức này trong bốn trăm năm sao?” anh lầm bầm khi tự giải tỏa bản thân trong mấy bụi hoa hồng. Anh lóng ngóng với cái khóa kéo và mấy cái khóa quần, nhưng đã xoay xở cũng khá tốt, anh nghĩ.

“Mình sẽ vẫn ổn thôi mà không cần tới ả phù thủy đó,” anh tự nhủ với chính bản thân mình khi quay vào nhà. Có lẽ ngày mai anh sẽ nhớ lại và nhận ra tất cả những chuyện này chỉ là một giấc mơ, một giấc mơ dài và tồi tệ.

Dưới nhà không có ai hết, vì thế Nicholas nhìn vào căn phòng có cửa mở toang. Đồ đạc trong căn phòng đó hoàn toàn được che phủ bằng vải dệt sặc sỡ. Có một cái ghế mà không thấy một tí gỗ nào. Khi anh ngồi lên chiếc ghế, sự êm ái bao bọc lấy anh. Trong một khoảnh khắc anh nhắm mắt lại và nghĩ về mẹ anh, thân hình yếu đuối già nua của bà. Mẹ sẽ thích một chiếc ghế như thế này nhiều đến nhường nào, được bao phủ trong sự êm ái và vải vóc, anh nghĩ.

Dựa vào tường là một cái bàn làm việc cao bằng gỗ với một cái ghế đẩu bên dưới. Đây là cái gì đó trông có vẻ hơi quen thuộc. Khi kiểm tra cái tủ nhiều ngăn, anh đã nhìn thấy bản lề và nhấc nắp nó lên. Nó không phải bàn làm việc mà là một loại đàn clavico, và khi anh chạm vào bàn phím, âm thanh vang lên thật khác biệt. Có những bản nhạc phía trước anh và chỉ một lần này thôi, có cái gì đó trông thật quen thuộc.

Nicholas ngồi xuống cái ghế đẩu, lướt những ngón tay của anh qua những phím đàn để nghe giai điệu của chúng, rồi lúng túng vào lúc đầu, và bắt đầu chơi bản nhạc phía trước mặt anh.

“Thật tuyệt.”

Quay lại, anh nhìn thấy bà chủ nhà đứng đằng sau.

“Moon River” luôn là một trong những bản yêu thích nhất của tôi. Anh chơi nhạc Ragtime[15] như thế nào?” Bà lục lọi một hồi bên trong ngăn kéo của cái bàn nhỏ có một cái cây trông to lớn lạ thường mọc phía trên nó và rút ra một bản nhạc khác. “Tất cả chúng đều theo giai điệu kiểu Mỹ”, bà nói. “Chồng tôi là người Mỹ.”

Một mẩu giấy có ghi nhạc lạ thường nhất, mang tên “The Sting”, được đặt trước mặt Nicholas. Anh phải mất một chút thời gian trước khi chơi nó cho bà chủ nhà vừa lòng, nhưng ngay khi anh nắm bắt được âm điệu của bản nhạc, anh chơi nó đầy hứng thú.

“Ôi chao, cậu chơi thật hay,” bà nói. “Cậu có thể xin được việc làm tại bất cứ quán rượu nào.”

“A, vâng, quán rượu. Ta sẽ cân nhắc đến khả năng này,” Nicholas đáp lại, mỉm cười khi anh đứng lên. “Nhu cầu việc làm chắc chưa phát sinh.” Đột nhiên, anh cảm thấy choáng váng và với ra để ngồi lại trên ghế.

“Cậu ổn chứ?”

“Chỉ mệt mỏi,” Nicholas thì thầm.

“Du lịch luôn khiến tôi mệt lả. Hôm nay đi xa quá hả?”

“Hàng trăm năm.”

Người phụ nữ mỉm cười. “Tôi cũng cảm thấy thế khi đi du lịch. Cậu nên về phòng mình và ngả lưng một chút trước khi ăn tối.”

“Vâng,” Nicholas khe khẽ nói khi anh bắt đầu lên cầu thang. Có lẽ ngày mai anh sẽ có thể suy nghĩ rõ ràng hơn về việc làm thế nào để tự mình quay trở lại thời đại của anh. Hoặc có lẽ ngày mai anh sẽ thức dậy trong giường của chính mình và nhận ra rằng tất cả chuyện này đều đã kết thúc, không chỉ cơn ác mộng thế kỷ hai mươi này, mà còn là cơn ác mộng anh đã bị dính vào trong khi lần cuối anh ở nhà.

Về đến phòng anh chậm chạp cởi quần áo, và treo chúng lên theo cái cách anh đã nhìn thấy chúng đã được treo trong các cửa hàng quần áo. Ả phù thủy đó bây giờ ở đâu? Anh tự hỏi. Phải chăng cô ta đã quay lại trong vòng tay người tình của cô ta? Cô ta có đủ quyền lực để kéo anh tới tương lai hơn bốn trăm năm, do đó, anh không hề nghi ngờ gì rằng cô ta có thể triệu hồn gã người tình lang thang chỉ cách có vài dặm trở lại.

Trần truồng, Nicholas leo lên giường. Tấm ga trải giường mềm mượt đến mức khó tin và chúng có mùi sạch sẽ và mới tinh. Bên trên anh, thay vì một tấm khăn phủ giường nặng nề, rắc rối là một chiếc chăn rộng, nhẹ và mềm mại.

Ngày mai, anh nghĩ khi nhắm mắt lại đầy mệt mỏi. Ngày mai anh sẽ về nhà.

Ngay giây phút đó, anh rơi vào giấc ngủ sâu hơn bất cứ giấc ngủ nào anh đã có trước đây, và anh không nghe thấy bất cứ điều gì khi bầu trời sầm sì và bắt đầu mưa.

Vài giờ sau khi anh đã ngủ, miễn cưỡng, anh bị đánh thức như thể chính anh bị đánh đập ở đâu đó. Chuếnh choáng, Nicholas ngồi dậy. Căn phòng tối đến mức đầu tiên anh còn không nhận ra mình đang ở đâu. Khi anh nghe thấy tiếng mưa rơi lộp độp trên mái nhà, trí nhớ của anh từ từ quay lại. Anh vụng về dò dẫm trên cái bàn cạnh giường tìm đá lửa và nến để thắp sáng, nhưng chẳng thấy cái gì.

“Đây là nơi khỉ nào vậy?” anh hét lên. “Không chậu tiểu, không nhà xí và không ánh sáng.”

Khi anh đang cằn nhằn, đầu anh quay ngoắt lại khi anh nghe thấy cái gì đó. Ai đó đang gọi anh. Giọng nói không lời đó. Anh không thể nghe thấy âm thanh thật tên gọi của anh, nhưng anh có thể cảm nhận được sự cấp bách và hoàn cảnh túng quẫn đến tuyệt vọng của giọng nói đang vươn tới chạm vào anh.

Không còn nghi ngờ gì nữa, là ả phù thủy đó, anh nghĩ với một cái nhăn mặt. Phải chăng cô ta đã khom xuống cái vạc mắt rắn, vừa khuấy vừa lảm nhảm vừa thì thầm tên anh?

Khi Nicholas cảm thấy sức kéo của tiếng gọi đó, anh biết rằng chống lại cô ta chẳng có ích gì. Cũng như việc anh sống và hít thở, anh biết rằng anh phải đến với cô ta.

Với một sự miễn cưỡng cực đại, anh rời khỏi chiếc giường ấm áp, sau đó bắt đầu công việc khó khăn đầy phiền phức là tự mặc bộ áo quần hiện đại kỳ lạ này. Ngay khi anh kéo cái khoá kéo đó lên, anh phát hiện ra phần thân thể dễ bị thương tổn nhất của mình bị mắc kẹt vào trong những chiếc răng kim loại nhỏ tẹo đó. Nguyền rủa, anh mặc chiếc áo sơ mi tầm thường và dò dẫm tìm lối đi ra khỏi căn phòng tối om.

Anh vui mừng nhìn thấy có ánh sáng ở trong đại sảnh. Trên tường là một ngọn đuốc được bao bọc bằng kính, nhưng ngọn lửa không cháy, và dù nó là cái gì, nó được bọc trong một quả cầu bằng kính hình tròn. Anh muốn kiểm tra phép màu thần diệu này kỹ hơn, nhưng một tia sét lóe lên xuyên qua cửa sổ và một tràng sấm đì đùng làm ngôi nhà rung lên lách cách–và tiếng gọi vang đến chỗ anh mạnh mẽ hơn.

Anh đi xuống cầu thang, băng ngang qua tấm thảm dày sum sê và ra ngoài trong cơn mưa như trút nước. Lấy tay che mặt, Nicholas nhìn lên để thấy rằng cao tít phía trên đầu anh là bao nhiêu ngọn lửa được đặt trên đầu các cây cột, dù mưa dập gió vùi vẫn không thể dập chúng tắt lửa. Run rẩy, đã ướt như chuột lột, Nicholas co đầu mình xuống cổ áo. Bộ quần áo hiện đại này chẳng vững chắc gì hết! Mấy người hiện đại này chắc phải khỏe mạnh lắm, anh nghĩ. Làm thế nào họ sống sót được mà không có áo choàng, hay áo chẽn bằng da để bảo vệ họ khỏi những cơn mưa quất mạnh như thế này?

Chật vật chống lại những đợt mưa quất mạnh, anh đi xuống con phố đầy xa lạ với anh. Nhiều lần anh nghe những tiếng ồn ào lạ lẫm và với tay tìm thanh kiếm của mình, sau đó nguyền rủa khi anh nhận thấy rằng vũ khí của anh không ở đó. Ngày mai, anh nghĩ, anh sẽ bán nhiều tiền xu hơn và thuê lính gác hộ tống anh. Và ngày mai anh sẽ buộc người phụ nữ đó nói cho anh sự thật về những gì cô ta đã thực hiện để đưa anh đến miền đất kỳ lạ này.

Anh di chuyển một cách khó khăn xuống hết con phố này đến con phố khác, vài lần rẽ nhầm hướng, nhưng sau đó anh dừng lại và lắng nghe cho đến khi tiếng gọi đó lại đến một lần nữa. Sau một hồi theo sau những gì mà anh nghe được trong tâm trí mình, anh rời con phố có những ngọn đuốc trên cột và tiến vào vùng quê tối đen. Trong vài phút anh đi bộ dọc theo con đường làng, sau đó dừng lại và lắng nghe khi anh vuốt hết nước mưa ra khỏi khuôn mặt mình. Cuối cùng, anh rẽ phải và bắt đầu băng ngang qua một cánh đồng, và khi anh tới chỗ hàng rào, anh leo qua nó, rồi lại tiếp tục đi bộ. Sau một hồi thật lâu, anh tới một nhà kho nhỏ và anh biết rằng, cuối cùng anh cũng đã tìm thấy cô ta.

Khi anh đẩy cánh cửa mở tung, một tia chớp lóe lên cho thấy cô ta ở trong nhà kho. Cô ta ướt như chuột lột, run rẩy, và cuộn tròn lại như quả bóng trên một đống rơm bẩn thỉu, cố hết sức để giữ ấm. Và một lần nữa, cô ta lại đang nức nở.

“Sao đây hả tiểu thư,” anh nói, hàm răng nghiến lại đầy giận dữ, “ngươi đã gọi ta ra khỏi chiếc giường ấm áp. Giờ thìngươi muốn gì ở ta đây? “

“Đi đi,” cô ta nức nở. “Để cho tôi yên.”

Khi anh nhìn xuống cô ta, anh phải thán phục lòng dũng cảm cũng như niềm kiêu hãnh của cô. Răng cô ta va vào nhau lập cập to đến mức anh có thể nghe thấy chúng qua tiếng mưa; cô ta rõ ràng đang lạnh cóng. Với một tiếng thở dài, anh thả trôi cơn giận dữ mình. Nếu cô ta là một ả phù thủy quyền lực đến như vậy, tại sao cô ta không thể phù phép cho mình một nơi khô ráo để nghỉ qua đêm? Nicholas bước vào trong căn nhà kho dột tứ tung, cúi xuống và nâng cô lên trong vòng tay của anh. “Ta không biết ai là người không nơi nương tựa nhiều hơn,” anh nói, “ngươi hay là ta.”

“Thả tôi ra,” cô nói, khi anh nâng cô lên, nhưng cô không thật sự chống cự để thoát ra khỏi anh. Thay vào đó, cô ta ngả đầu mình tựa vào vai anh và bắt đầu thổn thức to hơn. “Tôi không thể tìm được bất cứ nơi nào để ở. Giá cả mọi thứ ở Anh quá đắt và tôi không biết Robert đang ở đâu và tôi sẽ phải gọi Elizabeth và chị ấy sẽ cười nhạo tôi,” cô ta nói tất cả trong một câu gần như là không thể nào hiểu nổi.

Nicholas phải điều chỉnh cô ta trong cánh tay anh cho phù hợp khi anh đu qua hàng rào, nhưng anh tiếp tục bước đi, và Dougless tiếp tục khóc khi hai cánh tay cô trượt vòng quanh cổ anh. “Tôi không thuộc về bất cứ nơi nào,” cô nói. “Gia đình tôi quá hoàn hảo nhưng tôi thì không. Tất cả phụ nữ trong gia đình tôi đều cưới những người đàn ông phi thường,nhưng tôi thậm chí còn không thể gặp nổi một người đàn ông phi thường nào. Robert là một cú tóm tuyệt vời nhưng tôi đã không giữ được anh ấy. Ôi, Nick, Tôi sẽ làm gì đây?”

Họ đã ra ngoài cánh đồng và trở lại trên con đường lát nhựa. “Đầu tiên, tiểu thư,” anh nói, “ngươi sẽ không gọi ta là Nick, Nicholas thì được, hoặc có thể là Colin nhưng không phải là Nick. Giờ thì vì số mệnh của chúng ta là phải biết về người kia, tên ngươi là gì?”

“Dougless,” cô nói, níu chặt vào anh. “Tên tôi là Dougless Montgomery.”

“À há, một cái tên thật hay và nhạy cảm.”

Dougless sụt sịt, những giọt nước mắt của cô từ từ chảy xuống. “Cha tôi dạy môn lịch sử thời Trung cổ, thế nên ông ấy đặt tên tôi theo tên của Dougless Sheffield. Anh có biết người phụ nữ đã sinh ra đứa con ngoại hôn của bá tước Leicester không?”

Nicholas dừng phắt lại. “Cô ta cái gì?”

Dougless dịch ra để nhìn lên anh đầy ngạc nhiên. Trận mưa lúc này chỉ còn là một cơn mưa phùn nhè nhẹ và có đủ ánh trăng để cô có thể nhìn thấy nét mặt anh. “Cô ấy sinh con cho bá tước Leicester,” cô nói một cách ngạc nhiên.

Ngay lập tức, Nicholas đặt cô xuống đất và nhìn cô đầy giận dữ. Cơn mưa làm khuôn mặt của cả hai người bọn họ ướt đẫm. “Và xin nói cho ta biết, ai là bá tước Leicester?”

Vẻ ngụy trang của anh ta đang trôi tuột đi, Dougless nghĩ khi cô mỉm cười lên với anh ta. “Không phải anh nên giả vờ biết điều này sao?” Khi Nicholas không trả lời, Dougless nói, “Bá tước Leicester là Robert Dudley, người đàn ông đã yêu Nữ hoàng Elizabeth rất nhiều ấy.”

Trước câu nói đó, cơn thịnh nộ phủ đầy khắp khuôn mặt Nicholas, sau đó anh quay đi và đùng đùng bước ra xa. “Dòng họ Dudley là những kẻ phản bội, tất cả bọn chúng đều bị hành hình,” anh nói qua vai của mình. “Và Nữ hoàng Elizabeth sẽ kết hôn với vua Tây Ban Nha. Bà ấy sẽ không kết hôn với Dudley, ta có thể đảm bảo với cô về điều đó! “

“Anh nói đúng, bà ấy không cưới Dudley, và bà ấy cũng không cưới vua Tây Ban Nha,” Dougless hét lên khi cô chạy theo sau anh ta. Nhưng cô buột ra một tiếng kêu ăng ẳng đầy đau đớn khi cô bị trật mắt cá chân và ngã xuống con đường nhựa, hai tay và đầu gối trấy xước.

Giận dữ, Nicholas quay trở lại với cô. “Đàn bà, các người là một đống rắc rối chết dẫm,” anh nói khi một lần nữa nâng cô lên trong vòng tay mình.

Dougless bắt đầu nói, nhưng khi anh ta yêu cầu cô im lặng, cô ngả đầu ra sau dựa vào vai anh và không nói thêm tiếng nào.

Anh bế cô suốt quãng đường quay trở lại căn B & B, nơi anh đang ở, và khi anh đẩy mở cửa, anh thấy bà chủ nhà đang ngồi trên ghế đợi anh.

“Cậu đây rồi,” bà chủ nhà nói, nhẹ nhõm chất đầy trong giọng bà. “Tôi nghe thấy cậu rời đi, và tôi biết sâu thẳm trong tim mình có cái gì đó không ổn mà. Ôi, hai đứa trẻ đáng thương, cả hai đứa trông mệt rũ ra rồi. Sao cậu không đưa cô ấy lên gác và trong khi cô ấy ngâm mình trong bồn nước nóng dễ chịu, tôi sẽ chuẩn bị cho cả hai đứa trà và bánh xăng-uých.” Bà nhìn Nicholas. “Tôi mang bữa tối lên cho cậu lúc nãy, nhưng cậu không trả lời khi tôi gõ tiếng cửa. Cậu chắc đã ngủ mất rồi.”

Nicholas gật đầu với bà chủ nhà, sau đó theo bà lên gác, vẫn bế theo Dougless, nhưng cũng xoay xở để lờ tịt cô đi. Bà chủ nhà dẫn họ đến một căn phòng Nicholas chưa bao giờ nhìn thấy trước đó. Nó chứa những chậu bằng gốm to lớn, lạ thường bên trong, một trong những cái đó anh đoán có vẻ như là dùng làm bồn tắm. Nhưng anh không thấy những thùng nước, cũng không thấy những cô hầu phòng ở quanh. Ai sẽ đổ đầy bồn tắm to lớn này?

Anh gần như thả rơi cô nàng anh đang ôm khi bà chủ nhà vặn cái cục u phía trên bồn tắm và nước tuôn ra. Một dòng suối ở trong nhà! Nicholas nghĩ, mắt anh mở lớn không thể tin được.

“Nước sẽ nóng trong một phút thôi,” bà chủ nhà nói. “cậu nên cởi quần áo cho cô ấy và đặt cô ấy vào trong bồn tắm trong khi tôi đi lấy khăn sạch. Và cậu trông như thể cũng nên ngâm mình trong bồn nước thôi.” bà nói khi rời khỏi phòng.

Nicholas hiểu những gì bà chù nhà nói đủ để xem xét đến ý tưởng này. Anh nhìn xuống Dougless đầy thích thú.

“Đừng có hòng nghĩ tới chuyện đó,” Dougless cảnh báo. “Anh sẽ rời khỏi phòng này khi tôi tắm.”

Mỉm cười, anh đặt cô xuống và nhìn quanh. “Đây là phòng kiểu gì vậy?”

“Đây là phòng tắm.”

“Ta thấy chậu tắm rồi, nhưng cái vật này là gì vậy? Và đây nữa?”

Dougless đứng đó, trong bộ quần áo ướt đẫm, lạnh cóng, và nhìn anh ta.

Cô nghĩ rằng anh ta đã phạm một sơ suất nghiêm trọng trong việc ngụy trang của mình khi giả vờ biết rất ít về Robert Dudley, nhưng khi anh ta nói rõ hơn, Dougless biết anh ta đã nói đúng. Cô sẽ phải gọi cho cha mình hỏi về ngày tháng, nhưng cô cũng biết mà không cần hỏi rằng vào năm 1564, cái năm mà người đàn ông này nói rằng lần cuối cùng anh ta ở, Robert Dudley vẫn chưa được phong làm bá tước Leicester.

Vì thế, giờ đây khi gã đàn ông này đang đứng ở đó, trong bộ quần áo ướt đẫm, dính sát thân hình đẹp đẽ của anh ta, và anh ta đang hỏi cô nhà vệ sinh và bồn rửa mặt là cái gì. Cô phải dằn nén bản thân mình lại khỏi việc hỏi anh ta đã sử dụng cái gì nếu như anh ta không biết thế nào là nhà vệ sinh. Nhưng tất nhiên là anh ta biết, cô tự nói với bản thân mình. Tuy nhiên, anh ta chắc chắn đã phải học hành cực kỳ, cực kỳ vất vả đến nỗi quên mất cả những thứ cơ bản đến như vậy. Cô giải thích về bồn rửa mặt, sau đó mặt đỏ bừng đầy bối rối, cô giải thích về bồn cầu. Cô đã giải thích về việc để nắp ngồi bồn cầu lên và xuống. “Và đừng có bao giờ, nhớ là không bao giờ được để nắp ngồi bồn cầu lật lên,” cô nói, cảm thấy cứ như thể cô đang đóng góp phần của mình cho nữ giới trong việc giảng dạy cho một gã đàn ông điều đơn giản này.

Họ bị cắt ngang khi bà chủ nhà quay lại với một chồng khăn tắm và một cái váy vải bông hoa lá. “Tôi nhận thấy cô không có nhiều hành lý,” bà ta nói, giọng bà bóng gió muốn biết lý do tại sao. “Thông thường, người Mỹ xuất hiện với quá nhiều hành lý.”

“Bên hàng không đã làm thất lạc tất cả chúng,” Dougless nói nhanh và và tự hỏi liệu bà ta có nghĩ Nicholas cũng là người Mỹ. Có phải chất giọng của anh ta cũng kỳ quặc đối với một người Anh không?

“Tôi cũng nghĩ chuyện gì đại loại thế,” bà chủ nhà nói. “Tôi sẽ mang trà cho các vị và để nó trên bàn trong đại sảnh, nếu điều đó không phiền gì đến cô cậu. Thế nên, chúc ngủ ngon.”

“Vâng, cảm ơn,” Dougless nói khi cánh cửa đóng lại, để cô lại một mình với Nicholas, kẻ mà cô nhanh chóng đuổi ra ngoài. “Giờ thì anh ra ngoài được rồi. Tôi sẽ không lâu đâu.” Mỉm cười như thể đang thích thú sự bối rối của Dougless, anh ta rời khỏi nhà tắm. Khi còn lại một mình Dougless trượt vào trong làn nước nóng, ngả lưng xuống và nhắm mắt. Nước làm đau nhói hai đầu gối và khủy tay trầy xước của cô, nhưng rồi nước nóng bắt đầu làm cô ấm áp.

Làm cách nào anh ta tìm thấy được cô? Cô tự hỏi. Sau khi cô bỏ anh ta lại căn B & B, cô đã lang thang qua khắp các làng, cố gắng tìm một nơi để ở chỉ với ba mươi bảng, nhưng chẳng có. Tất cả những nơi rẻ hơn đã kín chỗ. Cô đã tiêu sáu bảng cho một bữa ăn trong quán rượu, sau đó bắt đầu đi bộ. Cô nghĩ có lẽ cô có thể đi bộ đến làng khác trước khi trời tối và tìm thấy một căn phòng ở đó. Nhưng cơn mưa bắt đầu, trời tối nhanh, và tất cả những gì Dougless tìm thấy là một nhà kho dột nát ở giữa cánh đồng. Lúc đầu cô cuộn người lại lên trên đống rơm bẩn thỉu nào đó và chìm vào giấc ngủ, nhưng rồi cô tỉnh giấc lúc nào đó trong suốt buổi tối để thấy mình đang khóc–dù sao thì, việc khóc lóc dường như đã là trạng thái bình thường của cô trong hai mươi tư giờ vừa qua.

Khi cô đang khóc thì anh ta xuất hiện–và sự thật là, cô không ngạc nhiên khi nhìn thấy anh ta. Thật ra, có vẻ như hoàn toàn tự nhiên rằng anh ta sẽ biết được nơi có thể tìm thấy cô và rằng anh ta sẽ đội cả mưa gió để đến với cô. Cũng có vẻ tự nhiên khi anh ta ôm cô lên trong vòng tay mạnh mẽ của anh ta.

Khi nước trở nên lạnh, Dougless ra khỏi bồn tắm, tự lau khô người, rồi mặc chiếc áo choàng hoa hoè vào. Chỉ một cái liếc trong gương cũng cho thấy cô không trang điểm và mái tóc cô… Càng nghĩ ít về nó thì càng tốt. Cô chẳng có thể làm được gì về vẻ ngoài của mình khi đến một cái lược cô cũng chẳng có.

Bẽn lẽn, cô gõ lên cánh cửa phòng ngủ được mở ra một nửa. Nicholas, mặc độc có cái quần dài vẫn còn ướt đẫm, giật nó mở tung. “Nhà tắm là của anh,” Cô nói, cố gắng mỉm cười và cố gắng hành động như thể tình huống này hoàn toàn bình thường.

Nhưng bây giờ chẳng có nét dịu dàng nào trên gương mặt anh ta. “Leo lên giường và ở nguyên đó,” Anh ta ra lệnh. “Ta không có ý định lại chơi đuổi chim bắt bướm với ngươi lần nữa đâu.”

Cô chỉ gật đầu khi anh ta đi ngang qua cô trên đường tiến vào nhà tắm. Trên bàn là một khay thức ăn và một ấm trà. “Cá là anh ta sẽ chẳng đề phần mình tí nào đâu,” cô lầm bầm cùng lúc cô nghĩ rằng cô chẳng xứng đáng với bất cứ sự tốt bụng nào nữa của anh ta. Cô đã là một mối tai hoạ đối với anh ta. Nhưng anh ta đã để lại trong ấm cho cô đủ một tách trà và để lại cho cô một miếng xăng-uých gà. Đầy biết ơn, Dougless ăn và uống hết tất cả; sau đó mặc chiếc áo choàng mỏng, cô trượt xuống dưới cái chăn bông của cái giường thứ hai. Khi anh ta quay lại, họ sẽ nói chuyện, cô nghĩ thế. Cô sẽ hỏi anh ta làm thế nào tìm ra nơi cô đang ở. Làm thế nào anh ta tìm thấy cô trong đêm tối mưa như trút nước?

Cô muốn nói chuyện với anh ta khi anh ta quay lại, nhưng cô nhắm mắt một lúc, và điều tiếp theo cô biết là trời sáng. Ánh mặt trời ấm áp tràn đầy trên khuôn mặt cô, và từ từ, chuếch choáng, cô mở mắt ra.

Có một người đàn ông đang đứng trước cửa sổ, lưng anh ta hướng về phía cô, và anh chỉ quấn độc có một chiếc khăn tắm nhỏ màu trắng ngang hông. Cứ như thể là một giấc mơ, Dougless nhận thấy anh ta có một tấm lưng vạm vỡ, thon dần xuống một vòng eo hẹp, và đôi chân anh ta chứa đầy những cơ bắp.

Dần dần, Dougless trở nên tỉnh táo đủ để nhớ ra người đàn ông đó là ai. Cô đã nhớ lại mọi thứ, từ cuộc gặp gỡ đầu tiên của họ trong nhà thờ khi anh rút kiếm ra dí vào cô, đến tối qua khi anh ta tìm thấy cô và bế cô xuyên qua làn mưa.

Khi cô ngồi dậy anh ta quay lại nhìn vào cô.

“Ngươi đã dậy rồi,” anh ta thẳng thừng nói, “Đến đây, dậy đi nào, vì có nhiều việc chúng ta cần phải làm lắm.”

Khi cô ra khỏi giường, cô nhận ra rằng anh ta cũng tính thay đồ… ngay trước mặt cô. Vơ vội lấy mớ quần áo nhăn nhúm của mình, cô vào trong phòng tắm để thay. Khi cô mặc xong quần áo, cô nhìn vào gương và gần như bắt đầu lại khóc một lần nữa. Cô trông thật thảm hại! Mắt cô vẫn còn đỏ, và tóc cô là một mớ lộn xộn, rối bù, loăn quăn–và cô biết cô chẳng có cách nào có thể sửa chữa được cái đống thiệt hại này. Khi cô nhìn vào trong gương, cô nghĩ rằng nếu tất cả phụ nữ phải đối mặt với thế giới bằng gương mặt mà Chúa đã ban tặng cho họ, số lượng nữ giới tự sát sẽ tăng cao một cách đột biến.

Thẳng vai lên, cô rời buồng tắm, nơi cô gần như va phải Nicholas, khi anh ta đang đợi cô ở hành lang.

“Đầu tiên chúng ta ăn; sau đó, tiểu thư, chúng ta nói chuyện,” anh ta nói cứ như thể những lời nói của mình là một sự thách thức.

Dougless chỉ đơn giản là gật đầu khi cô dẫn đầu anh ta đi xuống cầu thang dẫn tới một phòng ăn nhỏ.

Dougless mỉm cười khi họ bước vào phòng, và cô nhớ lại vài thứ cô đã đọc trong một cuốn sách hướng dẫn du lịch. Cuốn sách nói rằng có hai bữa ăn cần phải ăn ở nước Anh: Bữa sáng và tiệc trà. Khi cô và Nicholas ngồi vào một bàn ăn nhỏ, bà chủ nhà bắt đầu bê ra những đĩa đầy thức ăn. Có trứng bác phồng tơi, ba loại bánh mì, thịt lợn muối xông khói trông như loại dăm bông ngon nhất của Mỹ, cà chua nướng, khoai tây rán, cá trích muối hun khói vàng ươm, kem, bơ và mứt cam. Và ở giữa bàn là một bình lớn bằng gốm xinh xắn đựng trà pha sẵn được bà chủ nhà liên tục đổ đầy trong suốt bữa ăn.

Đói cồn cào, Dougless ăn cho đến khi cô không thể chứa nhiều hơn được nữa, nhưng cô chẳng thể đến gần được việc là đối thủ ngang cơ với Nicholas. Anh ta ăn gần như tất cả các món ăn được đặt trên bàn. Khi Dougless đã ăn xong, cô bắt gặp bà chủ nhà đang tò mò quan sát Nicholas. Anh ta dùng thìa hay bốc tay tất cả mọi thứ. Anh ta có dùng dao để cắt thịt xông khói trong khi giữ nó ở yên bằng những ngón tay, nhưng anh ta không hề đụng đến dĩa của mình dù chỉ một lần.

Cuối cùng khi kết thúc bữa ăn, anh ta cảm ơn bà chủ nhà rồi nắm lấy cánh tay Dougless và kéo cô ra ngoài.

“Chúng ta đi đâu đây?” cô hỏi khi trượt lưỡi qua hai hàm răng của mình. Cô đã không đánh răng hai mươi bốn giờ rồi, và chúng có cảm giác bờ cõi. Da đầu cô cũng ngứa ngáy nữa.

“Đến nhà thờ,” anh ta nói. “Chúng ta sẽ hình thành nên một kế hoạch ở đó.”

Họ nhanh chóng đi bộ đến nhà thờ, Nicholas chỉ dừng lại có một lần để trố mắt ra nhìn một cách đầy ngớ ngẩn vào chiếc xe tải sườn thấp loại nhỏ. Dougless bắt đầu kể cho anh ta nghe về xe tải mười tám bánh và xe tải chở gia súc, vì nghĩ tốt hơn là nên tham gia vào trò chơi của anh ta.

Ngôi nhà thờ cổ kính đã mở cửa và không một bóng người. Nicholas dẫn cô đến ngồi trên một hàng ghế dài được đặt ở góc bên phải phía trước ngôi mộ. Lặng thinh, cô theo dõi anh ta khi anh ta nhìn vào bức tượng cẩm thạch một lúc lâu, sau đó lướt bàn tay dọc theo ngày tháng và tên tuổi.

Cuối cùng anh ta quay đi, siết chặt hai tay sau lưng mình, và bắt đầu đi đi lại lại. “Như ta thấy đấy, tiểu thưMontgomery,” anh ta nói, “chúng ta cần lẫn nhau. Ta tin rằng Chúa trời buộc chúng ta lại với nhau là có lý do.”

“Tôi nghĩ tôi đã đọc một câu thần chú chứ,” cô nói, có ý đùa cợt, nhưng thật ra, cô lấy làm vui mừng vì anh ta cuối cùng cũng có vẻ nhận ra rằng cô không phải là một phù thủy.

“Quả thật lúc đầu ta cũng đã tin điều đó, nhưng ta đã không ngủ kể từ khi ngươi gọi ta trong cơn mưa và giờ thì ta đã có thời gian để xem xét mọi chuyện kỹ lưỡng hơn.”

“Tôi đã gọi anh?” cô nói đầy hoài nghi. “Tôi thậm chí còn không nghĩ đến anh, chứ đừng nói đến gọi anh. Và tôi có thể đảm bảo với anh rằng chẳng có cái điện thoại nào trong cánh đồng đó, và tôi chắc chắn không thể hét đủ lớn để anh có thể nghe thấy.”

“Dù sao đi nữa ngươi cũng đã gọi ta. Ngươi đánh thức ta dậy với những nhu cầu của ngươi.”

“Ồ, tôi hiểu rồi,” cô nói, bắt đầu trở nên giận dữ. “Chúng ta đang quay trở lại với niềm tin của anh rằng tôi, bằng cách nào đó, bằng một vài trò phù phép, đã mang anh đến đây từ ngôi mộ của anh. Tôi không thể chịu đựng được nữa rồi. Tôi đi đây,” cô nói khi bắt đầu đứng dậy.

Nhưng trước khi cô có thể di chuyển, anh ta đã ở trước mặt cô, một tay đặt trên tay ghế cao của chiếc ghế dài, tay kia đặt trên lưng ghế. Thân hình to lớn của anh ta ghim chặt cô vào ghế ngồi. “Đối với ta, vấn đề không phải là liệu ngươi có tin hay không,” anh ta nói, khuôn mặt anh ta gần sát vào mặt cô, lông mày anh ta cau lại. “Sáng hôm qua khi ta thức dậy đó là năm 1564 theo lịch Thiên Chúa của chúng ta và sáng nay nó là…”

“1988” cô thì thầm với anh ta.

“Phải,” anh ta nói, “Hơn bốn trăm năm sau. Và ngươi, phù thủy, là chìa khóa đã mang ta tới đây và đưa ta trở về.”

“Tin tôi đi, tôi sẽ gửi anh trở về nếu tôi có thể,” cô ta nói, miệng cô ta thành một đường hằn cứng nhắc. “Tôi đã có đủ những rắc rối của riêng mình mà không cần phải quan tâm đến…”

Anh ta cúi xuống gần khuôn mặt cô đến nỗi mũi anh ta gần như chạm vào mũi cô, và cô có thể cảm nhận được sức nóng toả ra từ cơn giận dữ của anh ta. “Ngươi dám nói rằng ngươi phải quan tâm đến ta à. Chính ta là kẻ đã kéo người ra khỏi cánh đồng vào lúc đêm hôm khuya khoắt đó.”

“Chỉ có mỗi một lần duy nhất đấy thôi,” Dougless yếu ớt nói, sau đó ngồi dựa vào cái ghế dài. “Được rồi”, cô nói với một tiếng thở dài, “Làm thế nào mà anh nghe được… các nhu cầu của tôi, như anh vẫn gọi nó?”

Anh ta thả cánh tay ra khỏi chiếc ghế dài, sau đó lùi lại để nhìn xuống ngôi mộ. “Có một sợi dây ràng buộc giữa hai chúng ta,” anh ta lặng lẽ nói. “Có lẽ nó là một sự ràng buộc xấu xa nhưng nó có thật. Ta đã thức dậy lúc nửa đêm với tiếng gọi của ngươi vọng đến ta. Ta không nghe thấy tiếng nói, nhưng dù thế nào đi chăng nữa, ta đã nghe thấy ngươi đang gọi ta. Cái cảm giác… của tiếng gọi đó đánh thức ta dậy, thế nên ta lần theo nó và tìm thấy ngươi.”

Dougless im lặng trong một lúc. Cô biết những gì anh ta vừa nói phải là sự thật, bởi vì không có sự giải thích nào khác cho việc làm thế nào mà anh ta tìm thấy cô. “Có phải anh đang nói rằng anh nghĩ có một kiểu thần giao cách cảm giữa hai chúng ta?”

Quay lại với cô, anh ta tặng cho cô một cái nhìn bối rối.

“Thần giao cách cảm là một kiểu truyền tải suy nghĩ. Một người có thể đọc được suy nghĩ của người khác.”

“Có thể,” Anh ta nói, nhìn lại vào ngôi mộ. “Ta không chắc nó là suy nghĩ nhiều như là…” Anh ta kéo dài giọng trong một khoảnh khắc. “Nhu cầu. Ta dường như nghe thấy ngươi cần ta.”

“Tôi không cần bất cứ ai hết,” Dougless bướng bỉnh nói.

Quay lại, anh ta nhìn cô trừng trừng, “Ta không hiểu tại sao ngươi không ở trong nhà của cha ngươi. Ta chưa bao giờ gặp một phụ nữ nào cần được quan tâm đến nhiều hơn ngươi.”

Một lần nữa, Dougless đột ngột đứng lên, nhưng vẻ mặt của Nicholas làm cô phải ngồi xuống. “Tốt thôi, anh nghe thấy tôi ‘gọi’, như anh đã nói. Vậy thì anh nghĩ nó có ý nghĩa gì?”

Một lần nữa, Nicholas chắp tay sau lưng và bắt đầu đi đi lại lại. “Ta đã đến thời đại, và nơi chốn ăn chơi lạ lùng này là vì một lý do, và ta tin rằng ngươi sẽ giúp ta tìm được câu trả lời tại sao ta lại ở đây.”

“Tôi không thể,” Dougless nhanh nhảu nói. “Tôi phải tìm Robert lấy lại hộ chiếu để có thể về nhà. Sự thật là tôi đã có cả một kỳ nghỉ mà tôi phải chịu đựng. Thêm hai mươi tư giờ nữa giống như vừa rồi, thì ai đó tốt hơn bắt đầu khắc bia mộ cho tôi đi là vừa.”

“Sự sống chết của ta chỉ là trò cười đối với ngươi, nhưng đối với ta thì không hề,” Nicholas lặng lẽ nói.

Dougless giơ tay lên đầy thất vọng. “Anh muốn tôi cảm thấy thương cảm cho anh bởi vì anh đã chết ư? Nhưng anh chưa chết, anh đang ở đây và anh còn sống.”

“Không đâu, tiểu thư, đây mới là ta,” anh ta nói, chỉ về phía ngôi mộ.

Trong một lúc, Dougless ngửa đầu mình ra sau tựa vào cái ghế dài và nhắm nghiền mắt lại. Ngay lúc này, cô nên bỏ đi. Quả thật, cô chắc chắn nên yêu cầu ai đó giúp đỡ. Nhưng sự thật là, cô chẳng thể làm hoặc điều này hay điều kia. Dù câu chuyện thật sự của người đàn ông này có là gì đi chăng nữa, thậm chí ngay cả nếu như cô không tin rằng anh ta đến từ một thời đại khác, anh ta dường như chắc chắn tin vào nó. Và sau khi anh ta đã giải cứu cô vào đêm qua, cô mắc nợ anh ta. Cô nhìn vào ta. “Vậy kế hoạch của anh là gì?” Cô hỏi một cách dịu dàng.

“Ta sẽ giúp ngươi tìm người tình của ngươi, nhưng đổi lại ngươi phải giúp ta tìm ra lý do tại sao ta lại ở đây.”

“Anh có thể giúp tôi tìm được Robert bằng cách nào?” Cô hỏi.

“Ta có thể nuôi ăn, cho quần áo mặc và bảo vệ ngươi cho đến khi tìm được hắn ta,” anh ta bắn trả lại ngay tức khắc.

“À, phải. Những thứ đó. Vậy còn chì kẻ mắt thì thế nào? Ok, chỉ là đùa thôi. Vậy là, giả sử ‘chúng ta’ đi tìm Robert, anh muốn tôi làm gì để giúp anh tìm ra, à, đường về nhà của anh?”

“Tối qua, ngươi nói với ta về Robert Dudley và nữ hoàng Elizabeth. Ngươi dường như biết nữ hoàng trẻ tuổi của chúng ta sẽ kết hôn với ai.”

“Elizabeth không cưới bất cứ ai hết, và bà ta được biết đến như là “The Virgin Queen”— Nữ hoàng đồng trinh. Ở nước Mỹ có hai bang được đặt theo tên của bà ấy là bang Virginia và West Virginia.”

“Không! Điều này không thể là sự thật. Không một người phụ nữ nào có thể cai trị một mình.”

“Bà ấy không những cai trị một mình mà còn làm tốt nữa là đằng khác. Làm được một công việc vĩ đại. Bà ấy đã khiến quyền lực nước Anh bao trùm lên khắp châu Âu. “

“Thật ư?”

“Anh không cần phải tin tôi, đó lịch sử.”

Trong một lúc, Nicholas trầm ngâm. “Lịch sử, phải. Tất cả những gì sẽ xảy ra với ta, với gia đình ta, giờ đã là lịch sử, thế nên, có lẽ tất cả những sự việc đó đã được ghi chép lại ở một nơi nào đó? “

“Tôi hiểu rồi,” Dougless nói, mỉm cười. “Anh nghĩ có lẽ anh được gửi về tương lai để tìm ra điều gì đó? Quả hấp dẫn làm sao,” cô nói, rồi cau mày. “Tôi muốn nói là nếu có khả năng một người nào đó được gửi đến tương lai, chắc sẽ phảihấp dẫn lắm. Nhưng vì nó là không thể, thế nên cũng không.”

Vẻ mặt hoang mang của anh ta bắt đầu trở nên quen thuộc đối với cô. Khi anh ta dường như không thể hiểu được những gì mà cô vừa mới nói, anh ta tiếp tục. “Có lẽ có một vài chuyện ngươi biết mà ta phải tìm ra từ ngươi.” Anh ta di chuyển để đứng chùm lên cô. “Mọi người trong thời đại của ngươi biết gì về sắc lệnh của Nữ hoàng chống lại ta? Ai đã nói với bà ấy rằng ta đã lập nên một đội quân để lật đổ bà ấy? Chuyện này chắc phải được ghi chép lại?”

“Ờ, phải. Cha tôi đã từng rất tức giận mỗi khi ông ấy đọc những việc đại loại như thế nói rằng Elizabeth đệ nhất có một đứa con ngoại hôn. Cha tôi nói rằng mỗi ngày trong cuộc đời bà đều được ghi chép lại thành tư liệu, vì thế bà ấy chẳng thể nào chuồn đi và bí mật có một đứa con.” Khi cô nói những điều này, Nicholas nhìn cô với một xúc cảm mãnh liệt khiến cô mỉm cười.

“Tôi có ý này. Sao anh không ở đây, trong thời đại này? Tại sao phải quay trở lại? Tôi chắc rằng anh có thể kiếm được việc làm. Anh sẽ là một giáo viên dạy lịch sử thời Elizabeth vĩ đại. Hoặc anh có thể nghiên cứu và viết sách. Tôi chắc rằng anh có đủ khả năng để sinh sống sau khi bán những đồng tiền xu của mình. Đấy là nếu anh đầu tư một cách thận trọng. Cha tôi có thể giúp anh đầu tư, hoặc là cậu tôi J.T cũng có thể. Cả hai người đó đều biết khá nhiều về tiền bạc.”

“Không!” Nicholas lớn tiếng nói, nắm tay phải của anh ta siết chặt trong bàn tay trái. “Ta phải quay trở về chính thời đại của mình. Danh dự của ta đang bị lâm nguy. Tương lai của dòng họ Stafford đang bị đe dọa. Nếu ta không trở về, tất cả sẽ bị tước đoạt.”

“Tước đoạt ư?” Dougless hỏi, và một chút rùng mình chạy dọc theo sống lưng cô. Cô biết về lịch sử thời Trung cổ đủ để có một vài ý tưởng nào đó về những gì mà anh ta đang nói. Giọng cô thấp xuống. “Thông thường một nhà quý tộc sẽ bị tước trả sự sản của mình nhà vua hay nữ hoàng, nếu anh ta bị kết tội…” Trong một khoảnh khắc cô chỉ đơn giản là ngước nhìn lên anh. “Mưu phản,” cô thì thầm. “Thời Trung cổ, người ta bị tước tài sản vì tội mưu phản. Và mưu phản cũng bị trả giá… theo những cách khác.” Cô hít vào một hơi thật sâu. “Làm sao… làm sao anh chết?”

“Ta cho rằng ta bị hành hình.”

Bình luận
Ads Footer