NÊN sao chép, chia sẻ, KHÔNG NÊN thương mại hoá.

Trạng Trình sấm và ký

Giai Thoại Về Trạng Lúc Sinh Thời

Tác giả: Nguyễn Nghiệp
Ads Top

1. Bà thân mẫu Từ THỤC PHU NHÂN

Thân phụ của Trạng là Văn Định sau. được nhà Mạc truy tặng chức Thải Bảo, Nghiêm Quận Công. Thân mẫu là con gái quan Hộ bộ Thượng thư Nhữ Văn Lan, sau được nhà Mạc truy tặng Từ Thục phu nhân. Tục truyền Từ Thục phu nhân là người đàn bà giỏi về văn chương và đặc biệt sở trường về khoa Lý số. Bà tự xem tướng biết mình sau sinh quý tử, nên kén chồng khá lâu. Mãi đến năm ngoài 30 tuổi, mới gặp ông Văn Định là người có tướng hợp, bà mới chịu cùng kết hôn. 

Cái mộng lớn của bà là sẽ sinh con làm Thiên tử, chứ không chịu công hầu khanh tướng. Vì thế, hôm động phòng hoa chúc, bà cắm một chiếc đũa ở trước sân và dặn ông Văn Định: Khi bóng trăng đến chiếc đũa, ông mới được nhập phòng. Đợi lâu quá, nóng ruột, ông Văn Định bước vào. Bà trách rằng: 

– Ông vội vàng như thế thì con cái sau này chỉ làm đến Tứ trụ hay đỗ đến Trạng Nguyên là cùng, chứ không thể làm được Hoàng đế. 

Hai vợ chống ăn ở được ít lâu, một hôm bà đi đò gặp một thanh niên vạm vỡ làm nghề đánh cá, bà xem tướng thấy rõ người này mới thật là đại quý, nhưng tiếc việc hôn nhân đã lỡ cùng ông Văn Định rồi. Người thanh niên ấy tức là Mạc Đăng Dung, sau này là Thái Tổ nhà Mạc. Tuy thế, những bà vẫn tin ở các phép nhân định thắng thiên của mình. 

Tương truyền, một hôm bà đưa con về quê, dọc đường gặp một thày tướng Trung Hoa. Sau khi liếc qua dung mạo của Nguyễn Bỉnh Khiêm, thầy Tàu buột miệng khen: “Tướng mạo của thằng bé này không phải tầm thường. Nhưng vì nước da hơi thô nên chỉ làm được Trạng Nguyên mà thôi”. Bà nghe lời nói của thầy tướng không được vui lòng. Nguyễn Bỉnh Khiêm là con trai đầu lòng của bà. Bà nuôi hy vọng rất lớn nên cầu mong ân trạch của tiền nhân và quyết sau này con bà phải ở ngôi Thiên Tử. 

Nguyễn Bình Khiêm thông minh lạ lùng. Năm đầy tuổi thôi nôi đã biết nói. Năm con lên 4 tuổi, bà đã dạy cho học thuộc lòng các bài chính nghĩa của Kinh, Truyện cùng với mươi bài thơ Nôm. Có một hôm bà mẹ đi vắng, ông Văn Định nhân lúc rảnh rang, bồng con dạo chơi thơ thẩn trước sân. Nhìn thấy ánh trăng, cao hứng ông ngâm lên: Nguyệt treo cung, nguyệt treo cung. Bỉnh Khiêm đã ứng khẩu đọc: Vén tay tiên, hốt hốt rung. Ngạc nhiên vì tài ứng đối giỏi của cậu con trai, ông Văn Định cho rằng con mình là “thần đồng xuất thế”. Khi bà vợ về ông Văn Định liền đem câu chuyện thuật lại. Bà mẹ của Bỉnh Khiêm đã không mừng thì chớ, lại trách chồng sao ưng mặt trăng là một khí tượng nhỏ, tượng trưng cho phận bầy tôi, sao sánh được với mặt trời, biểu hiện cho đấng Thiên tử. Cách ít lâu sau bà chán nản bỏ đi. Có thuyết cho rằng bà đã bước thêm một bước nữa và sinh hạ được ông Phùng Khắc Khoan, tác là ông Trạng Bùng, tác giả “Ngư Phủ nhập Đào Nguyên truyện” và “Nghị trai thi tập”, cũng gọi là “Phùng Công thi tập”.

2. Quan Bảng nhãn LƯƠNG ĐẮC BẰNG

16.12.2010 10:10

Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm

 Nguyễn Nghiệp

Nguyễn Bỉnh Khiêm lớn lên theo học quan Bảng nhãn Lương Đắc Bằng, người làng Hội Trào, huyện Hoàng Hóa, tỉnh Thanh Hoá, Nguyễn Bỉnh Khiêm học rất giỏi và nổi tiếng về văn thơ.

Một hôm cụ Lương Đắc Bằng ốm, biết mình không saosống lâu được nữa bèn gọi Nguyễn Bỉnh Khiêm lại, chỉ cho ông một cái tráp để trên đầu giường, bảo giở ra mà lấy một bộ sách gói kín trong nhiều lần gấm quý. Cụ Bằng bảo: 

– “Đây: thầy cho quyển sách này và chỉ có con mới có thể hiểu được. Giờ này, thầy cũng nên nhắc lại một việc ly kỳ cho con nghe: Lúc thầy đi sứ qua Tàu, sứ mạng xong thầy sắp về thì có một cụ khách già cầm trao cho thầy một quyển sách, thầy tưởng cho thầy. Ông ấy lại nói: 

– “Không, ta không phải cho nhà ngươi, ta nhờ người đem về giao cho một người An Nam”. 

Thầy ngạc nhiên hỏi: 

– “Cụ cho ai mà không nói tên?”. 

Ông đáp: – “Không cần, chừng nào trong tâm linh nhà ngươi muốn cho ai là người ấy được phần”. 

“Thầy mới hiểu lại ông ấy là một dị nhân. Ngày nay thầy cho con là con có phần”. 

Mở ra đọc cảm thấy không lãnh hội được gì mấy, ông Nguyễn Bỉnh Khiêm cất quyến sách ấy lại một bên. Thỉnh thoảng ông lại đem ra đọc, rồi lại cất, cứ như thế mãi… 

Đến một hôm, có ông khách Tàu đem cho ông Bỉnh Khiêm một bài thơ. ông giở ra xem thì thấy ngu ý của bài thơ có phần liên lạc với những câu trong bộ sách của thầy ông trao cho mà ông đã thường ngẫm đọc nhiều lần song chưa hề vơ nghĩa. Bộ sách ấy chính là bộ Thái ất Thần Kinh vậy. Nhiều người cho rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm nhờ nghiên cứu những điều bí ẩn trong bộ sách Thái ất Thần Kinh này mà thông suốt được mọi việc quá khứ vị lai.

Một hôm trời mùa hạ, bà Trạng đi chợ mua về cho Cụ một cây quạt giấy. Cụ tính ngày giờ, rồi lấy cho cây quạt một lá số tử vi. Cụ đoán ra cái ngày chết của nó. Tất cả những việc làm ấy, Cụ đều bí mật không cho một ai hay. Cụ phân vân nghĩ:.

“Nếu để dùng, lâu ngày nó sẽ rách hoặc thất lạc đi, cái đó là sự thường. Nếu đúng như số thật, và quả có như vậy mọi việc đều do nơi tiền định, không ai có thể ngăn cản được, thì ta hãy cất đi xem nó ra thế nào. Đúng đến ngày ấy, nó có chết thật không?”. 

Nghĩ vậy, Cụ niêm phong cây quạt và treo ngay lên chỗ đầu giường. 

Tới ngày, cây quạt vẫn còn nguyên.  Bữa đó từ sáng đến chiều. Cụ Ở nhà, quanh quẩn ở nơi giường cả ngày để xem cây quạt chết ra sao. Thỉnh thoảng Cụ lại ngắm nghía và lấy phất trần phủi những hạt bụi bám xung quanh. 

Trưa hôm ấy, người cháu gọi bà Trạng bằng cô, có việc cần, đến mấy lượt thỉnh Cụ lại chơi, Cụ cũng từ chối không đi. Anh ta nghĩ cho Cụ giận mình về việc gì mà không nói, đến than thở, nói với bà Trạng để nhờ bà đốc Cụ đi dùm cho, không có, công việc anh không thành. 

Bà Trạng từ sáng đã ngứa mắt thấy Cụ cứ chốc chốc lại phủi bụi cho quạt. Bà lên đốc Cụ đi sang cho nhà cháu. Cụ không đi. Bực mình, bà Trạng liền la lối om xòm: 

– Ông ở nhà làm gì, con cháu nó mời mấy lần , mà ông không chịu sang. Tôi mua quạt về dùng, đâu phải để ông cất đi làm đày tớ mà phủi bụi cho nó.Vừa la lối bà Trạng vừa nhẩy lên với lấy cây quạt xé tan ra từng mảnh. Này quạt, này quạt, không dùng thì xé nó đi để làm 

Thấy vậy, cụ Trạng cả cười nói: 

– Đúng thật, ta tưởng nó chết thế nào, thì ra như vậy đó. 

Bà Trạng cũng không biết ý Cụ nói thế là làm sao. Lúc đó Cụ mới chỉnh tề khăn áo đi sang nhà người cháu, và kể lại đầu đuôi câu chuyện với mọi người. Ai nấy cũng đều phục Cụ là tiên tri. 

Tối ba mươi Tết một năm nọ, Cụ đang ngồi đàm luận về lý số với một người học trò ở xa đến thăm và biếu Cụ lễ vật. Bỗng ngoài cổng có tiếng người gọi mở.

Cụ sai gia nhân ra bảo hãy chờ một chút. Rồi trong khi đó. Cụ và người học trò bấm quẻ để thử đoán xem người gọi cổng đi vào có chuyện gì.

Cả hai thầy trò cùng bấm vào một quẻ “Thiết đoản, mộc tràng” là sắt ngắn gỗ dài. 

Cụ hỏi: 

– Vậy anh đoán nó vào đây có việc gì ? 

Anh học trò trả lời : 

– Thưa thầy, sắt ngắn gỗ dài, theo ý con, người vào đây chắc hẳn là chỉ có mượn “mai” đào đất mà thôi. Chớ ngoài ra không còn cái gì là sắt ngắn gỗ dài nữa. 

Cụ cười nói: 

– Khác với anh, tôi lại đoán là nó đi vào đây mượn búa. 

Nói xong, Cụ cho mở cống, quả nhiên người ấy vào mượn búa thật. 

Anh học trò bị chững người ra vì sư đoán trật của mình. 

Cụ giải thích: Như anh bấm quẻ cũng là giỏi, nhưng mức đoán còn thấp. Anh bảo sắt ngắn gỗ dài mà đoán như vậy thì hỏi 30 tết, người ta đến đây để mượn cho nên tôi bảo là nó vào đây để mượn “mai” làm gì vì chỉ mượn búa để về bửa củi nấu bánh chưng mà thôi. Bấm quẻ đã trúng, nhưng khi đoán phải còn có ý thức cơ biến, mới tránh được những sự sai lầm. Người học trò bái phục, xin nhận lãnh những lời chỉ giáo ấy

 Tục truyền Ở làng Trạng có người học trò nghèo tên gọi là Bùi Sinh, một hôm đến hỏi Cụ về kế hoạch làm giàu Cụ hỏi năm, tháng, ngày, giờ sinh của anh rồi bảo:

– Sáng mai anh cứ ra chỗ bờ sông mà đón, hễ gặp cái gì, dầu dơ bẩn đến đâu, anh cũng cứ vớt lên, đừng ngại, rồi anh sẽ giàu đấy. Bùi Sinh từ tạ ra về. Theo lời Cụ dặn, sáng mai vào lúc đúng giờ Dần, anh ta ra ngồi ở mé sông để đợi. Anh vừa ra thì trời nổi giông gió sấm sét ầm ầm, rồi mưa đố xuống như trút nước.

Gặp vậy, anh ta đã thối chí, toan chạy trở lại, nhưng nghĩ phải cố gắng xem sao, lời Cụ Trạng nói có linh ứng gì không, âu đây cũng là một cái điềm. Anh ta ráng sức chịu trận, ngồi mãi đến lúc bỗng thấy từ ngoài xa, có một cái thây người chết theo gió và sóng tạt vào bờ, tấp ngay chỗ trước mặt anh ngồi. 

Theo lời Trạng, hễ gặp gì vớt nấy thế nên mặc dù cái thây ma ấy đã sình và trương lên, mùi hôi thối không thể nào chịu được, anh ta cũng cố gắng vớt lên. Khi đem cái thây ma ấy lên bờ thì trời bỗng tạnh mưa, giông gió và sấm sét cung thôi không gào nữa. 

Anh ta xem lại cái tử thi thì là cái xác một người con gái. Cái xác ấy tuy đã sình nhưng nét mặt vẫn còn đẹp như hoa. Anh ta xem xét quần áo thì ra là một cô gái Tàu. Nàng này không biết là con cái nhà ai, ở đâu xa lạ mà mình đeo rất nhiều ngọc ngà châu báu, trong mình lại có giắt thêm một số vàng bạc đáng kể. 

Thấy vậy, anh ta mới lấy số tiền ấy, rồi chôn cất tử tế cho nàng. Chôn xong, anh ta trở về, vừa đi vừa nghĩ, thầm phục Trạng là một vị thánh tiên tri thật. Cách đó chừng nửa tháng, bỗng có giấy ở bên Tàu tư sang cho biết có một bà công chúa đi thuyền ra chơi Nam Hải, không may nửa chừng bị sóng đánh lật tất cả người trong thuyền đều chết, không biết những tử thần có còn và nếu có rạt vào địa phận nước Nam thì làm ơn cho biết, và có ai vớt được chôn cất tử tế đàng hoàng, thư sang Thiên Triều sẽ trọng thưởng. Thì ra cái tử thi người con gái mà Bùi Sinh vớt ấy, chính là cái xác của công chúa nước Tàu vậy. 

Nhận được thư, nhà vua nước ta rao truyền các nơi. Bùi Sinh bèn đem việc tâu lên. Tin ấy truyền sang đến Trung Hoa, vua Tàu cho người sang xem xét thì quả thật như vậy. Ấy thế là Bùi Sinh được vua nước Trung Hoa thưởng không biết bao nhiêu là tiền của. Từ một anh học trò nghèo rớt mồng tơi, không có một miếng đất cắm dùi, anh bỗng trở nên một nhà cự phú nhất vùng. Câu chuyện này đồn đi, tiếng Trạng Trình là một nhàtiên tri lại nổi lên như cồn. Sĩ tử các nơi nô nức đến theo học cũng như thiên hạ đua đến để hỏi về những việc tương lai. 

Dân miền Vĩnh Lại – nơi quê hương Trạng – hiếu học và trọng việc khoa cử. Nhưng học thì rất nhiều mà đỗ đạt thì ít, chẳng có mấy người được làm nên những sự nghiệp lớn lao, trong khi các miền xung quanh, phát tích không biết bao nhiêu là anh hùng hào kiệt, văn thì tiến sĩ hoàng giáp, võ thì đô đốc, quận công.

Thấy thế, dân miền Vĩnh Lại cũng nghĩ lấy làm tức. Các sĩ tử mới rú nhau đi đến hỏi Trạng xem ra thế nào. Nhưng cụ không trả lời, bảo đó là thiên cơ bất khả lậu. 

Người ta cũng không hài lòng về điểm ấy của Cụ, chẳng những thế lại còn cho Cụ là một người thâm hiểm, sai biết mà không chỉ. Nghe phong phanh tin ấy, Trạng bèn làm một con ngựa bằng đá để ở bên này sông Vĩnh Lại. Trên lưng con ngựa, Cụ cho thợ khắc hai câu thơ chữ nho: 

    “Hà thời thạch mã độ giang, 

    Thử thời Vĩnh Lại nghinh ngang công hầu” 

Và hai câu chữ nôm dịch lại ý nghĩa hai câu chữ nho trên: 

  “Bao giờ ngựa đá sang sông, 

  Thì dân Vĩnh Lại quận công cả làng”, 

Khi con ngựa đá được dựng trên bờ sông, mọi người đều tụ tập xem. Và dân làng Vĩnh Lại đời này qua đời khác ngong ngóng đón xem chừng nào con ngựa đá sang sông, xem làng có thể phát toàn đô đốc, quận công không. Cũng có người cho đó là ý cụ bảo cho dân làng Vĩnh Lại biết rằng đây là một việc không bao giờ có được, cũng như câu tục ngữ:  

  “Bao giờ rau diếp làm đình, 

  Gỗ lim ăn ghém thì mình lấy ta”. 

Rau diếp bao giờ làm đình được, gỗ lim bao giờ ăn ghém được mà hòng tính chuyện trăm năm, cũng như ngựa đá bao giờ mà lội sang sông được, mà hòng những chức như quận công, đô đốc. 

Ngày qua tháng lại, con sông Vĩnh Lại mỗi ngày một lở thêm để bồi sang bên kia, thấm thoắt đến cuối đời Hậu Lê thì con ngựa đá không biết chạy mà sang qua sông thật. Sở dĩ có việc ấy là do bờ sông hai bên bồi lở mà thay đổi. 

Tới chừng này, dân làng Vĩnh Lại mới nhao lên chờ đón tin mừng, mọi người đều hy vọng một chức quận công hay đô đốc sẽ tới cho đời mình. Dân các làng khác nghe tin cũng gớm cho dân làng Vĩnh Lại. Uy tín Cụ Trạng Trình đến đây lại sống lại và đồn đi khắp nơi. Đâu đâu cũng thấy bàn tán về chuyện con ngựa đá ở bờ sông Vĩnh Lại. Con gái các nơi thi nhau mà về làm dâu làng Vĩnh Lại, trong bụng thầm mong rằng rồi mình cũng sẽ trở nên bà đô đốc hay bà quận công. Trai làng Vĩnh Lại ngang tàng lên mặt, trai các làng khác không ai dám động tới ngại rằng lỡ ra nay mai các cậu làm nên thì coi chừng mà toi cơm. 

Đang khi như vậy thì cuộc chiến tranh giữa Tây Sơn và chúa Nguyễn ở trong Nam nổ ra. Không bao lâu quân Tây Sơn thắng trận, tiêu diệt chúa Nguyễn rồi thừa thắng đem binh ra diệt luôn chúa Trịnh ở Bắc. Tây Sơn trả lại quyền cho nhà Lê. Vua nhà Lê từ đó thoát khỏi nạn chúa Trịnh chuyên quyền. Nhưng sau khi vua Hiển Tông mất, vua Chiêu Thống lên ngôi, dòng dõi của Trịnh lại trở về. Nhà vua phải mật triệu Nguyễn Hữu Chỉnh Ở Nghệ An ra giúp. Chỉnh đem binh ra đánh đuổi và dẹp tan đám con cháu của Trịnh còn sót lại. Nhưng Chỉnh lại chuyên quyền và ra mặt chống với Tây Sơn. 

Nguyễn Huệ thấy vậy liền sai tướng là Vũ Văn Nhậm đem binh ra đánh Chỉnh, Quân Nhậm tiến gần Thăng Long, Chỉnh đem vua chạy trốn. Nửa đường Chỉnh bị quân Nhậm bắt sống. Còn vua thì thoát nhưng phải giả dạng là thường dân mang ấn tín trong mình mà chạy. 

Tướng Tây Sơn cho binh mã rượt theo. Nhà vua phải qua sông Vĩnh Lại và ở lại làng này. 

Dân làng Vĩnh Lại thấy thế cho là điềm trời xui khiến, mới rước vua về đình và thảo hịch chiêu mộ quân sĩ để chống với Tây Sơn. Sẵn thấy ấn tín của nhà vua đem theo, dân làng liền bức nhà vua phải ký giấy phong tước cho mình. Tội nghiệp cho nhà vua, lúc đó còn thế lực và quyền úy gì nữa đâu, lại ở trong tay người làng Vĩnh Lại. Thôi thì cung điện ngai vàng còn chả tiếc được, huống chi là những chức nọ tước kia! Nhà vua đành cũng phải chiều lòng. Người này được, người kia cũng tới xin tới đòi. ấy thế là chỉ nội mấy đêm, mấy ngày, bao nhiêu các cụ các đinh tráng trong làng đều người thì quận công, kẻ thì đô đốc chỉ trừ mấy kẻ chưa đến tuổi trưởng thành là chịu làm bạch đinh. Lại cả bao nhiêu các bà cũng đều được phong chức phu nhân. 

Phong tước xong, nhà vua từ giã để chạy sang nơi khác. Thế là dân làng Vĩnh Lại chỉ nội trong mấy ngày đã thành quận công, đô đốc hết, và toàn thể dân đinh trong làng đều đứng dậy để phù nhà Lê chống lại với Tây Sơn 

Nghe tin, tướng Vũ Văn Nhậm liền đem quân tràn sang. Dân làng Vĩnh Lại chống cự không được, bao nhiêu đô dốc, quận công đều bị giết hoặc bị bắt. Tai hoạ xảy ra cho cả làng, với bao nỗi thảm thương. 

 Sau khi nhà Lê bị Mạc Đăng Dung chiếm ngôi, Nguyễn Kim con Nguyễn Hoàng Dụ, một võ tướng đen Lê Chiêu Tông trốn sang Lào, được vua Lào cho nương náu ở xứ Cẩm Châu thuộc trấn Nam Phủ, tỉnh Thanh Hoá. Năm Quí Ty (1532), Kim lập con út vua Chiêu Tông lên làm vua, gọi là vua Trang Tông.

Trong việc mưa đồ đại sự, Kim thu nạp một kiện tướng thảo dã anh hùng ở tỉnh Thanh Hoá: Trịnh Kiểm. 

Năm Canh Tý ( 1540) Nguyễn Kim tiến đánh Nghệ An, Hai năm sau, quân Trang Tông tiến ra Thanh Hoá, rồi năm sau nữa ( 1543), Kim nắm hẳn được Nghệ An và thu phục được cả Tây Đô (Thanh Hoá). Năm ất Ty (1545) Nguyễn Kim ngộ độc, mất. Bình quyền về tay Trịnh Kiểm. 

Bấy giờ, Việt Nam chia hai: Từ Sơn Nam đổ ra thuộc ảnh hưởng nhà Mạc, gọi là Bắc Triều; từ Thanh Hoá trở vào là khu vực nhà Lê hay Nam Triều. 

Trịnh Kiểm thay Nguyễn Kim, giúp nhà Lê Trung hưng, nắm trọn quyền bính trong tay. Vì tính đa nghi, Trịnh Kiểm đã giết em vợ là Nguyễn Uông. Nguyễn 

Hoàng, em Nguyễn Uông, con Nguyễn Kim, sợ bị hại, sai người đến hỏi kế Cụ. Cụ chỉ đàn kiến ở hòn non bộ, mỉm cười nói: 

“Hoành Sơn nhất đái, khả dĩ dung thân”(l) 

Nghĩa là Hoành Sơn một dải, có thể dung thân. 

Theo lời, Nguyễn Hoàng xin đi trấn thủ Thuận Hoá phía Nam dãy Hoành Sơn. Quả nhiên mối ngày một thịnh, đề rồi mở mang ra cơ nghiệp nhà Nguyễn, truyền nối lâu dài…

Từ khi có bộ sách Thái ất Thần Kinh, cụ Trạng thông suốt những điều huyền vi của trời đất, Cụ nổi tiếng và khoa Lý số. Lúc bấy giờ Mạc Đăng Dung đã đoạt ngôi nhà Lê và lập ra nhà Mạc. Cụ suy đoán biết nhà Lê sớm muộn thế nào cũng trung hưng. Cụ ẩn dật, làm nghề dạy học để đợi khoa nhà Lê. Nhưng sau bất đắc dĩ Cụ phải ra dự thi khoa nhà Mạc vì lúc đó tuổi đã ngoài bốn mươi.

Cụ thi Hương đỗ giải nguyên năm 44 tuổi và thi Đình đốc Trạng Nguyên năm 45 tuổi, niên hiệu Đại chính, đời vua Mạc Đăng Doanh. 

Thi đỗ Trạng Nguyên, cụ được nhà Mạc cử làm Tả thị Lang, Đông các Đại học sĩ và gia phong đến chức Trình Tuyền Hầu. Làm quan được 8 năm, thấy triều Mạc lúc bấy giờ không hợp mà cũng không xứng đáng cho Cụ khuôn phù, nên Cụ cáo quan về nghỉ. 

Về làng, Cụ lập ra một cái Am gọi là Am Bạch Vân và lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ. Ở đây, Cụ sống một cuộc đời thanh nhàn ẩn dật, thường ngày cùng các vị sư hoặc chèo thuyền ôi xem đánh cá ở Hồ Hải, úc Hải, hoặc đi lên những nơi thắng cảnh như Yên Tử, Ngoa Vân, Kính Chủ, và Đồ Sơn, v v 

Trong những ngày ngao du sơn thuỷ này, Cụ còn để lại hai câu thơ: 

“Ngư ông bất ngộ Đào nguyên khách, 

Khởi  thức hưng vong thế cổ kim”. 

Nghĩa là người đánh cá, không gặp khách nguồn đào, sao biết được sự hưng vong của cuộc thế xưa nay. Ngụ ý nói mình hiện nay là một kẻ đã lánh xa cuộc thế, cũng như anh chàng đánh cá xưa kia đã tới chốn nguồn Đào. 

Ngoài việc ngao du sơn thuỷ, cụ còn tu bổ các chùa chiền, và làm một cây cầu hóng mát ở trên sông Tuyết Giang để cùng các học trò ra đó nghỉ ngơi và đàm luận. Vì thế, khi Cụ mất đi, mới có tên thuỷ của các môn sinh đặt tôn là Tuyết Giang Phu tử. 

Cụ tuy từ quan về ẩn dật, nhưng nhà Mạc vẫn kính như một bực thầy, thương cho sứ đến hỏi, mỗi khi có việc quan trọng. Với lòng vô tư, Cụ cũng giúp cho nhà Mạc được nhiều việc. Sau Mạc lại phong cho Cụ chức Lại bộ Thượng thư, Thái phó Trình quốc công, nên người đời mới gọi là Trạng Trình. 

Người bên Trung Quốc cũng nghe danh và có câu: 

“An Nam lý học hữu Trình Tuyền” 

Nghĩa là ông Trình Tuyền (chỉ Nguyễn Bình Khiêm) là nhà lý học nổi tiếng ở nước Nam. 

Vì thế chẳng những vua tôi nhà Mạc thường thỉnh ý Cụ mà ngay trên cả các chúa Trịnh và chúa Nguyên cũng thế. 

Khi Trạng bị bệnh nặng, vua Mạc Mậu Hợp sai con đến thăm cu và hỏi về kế hoạch sau này. Cụ bảo:  

Cao Bằng tuy thiểu, khả diên sổ thế (đất Cao Bằng tuy nhỏ hẹp cũng dung thân được vài đời). 

Nhà Mạc nghe dặn, khi thất thế chạy lên chiếm cứ Cao Bằng. Quả nhiên làm vua được vài đời nữa, trước sau cả thảy được gần 70 năm mới bị nhà Lê đánh bại hẳn.

Lúc bấy giờ nhà Lê đã trung hưng, dùng căn cứ ở miền Thanh Nghệ tiến mạnh ra kinh đô. Trịnh Kiểm cho người đến vấn kế: “Hưng Lê diệt Mạc” với Cụ. Cụ không đáp chỉ sai người nhà vứt chiếc chiếu ra sân. Sứ giả về tâu, cả triều thần không ai hiểu gì cả. Chúa Trịnh phải vời Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan đến đoán giúp. Trạng Bùng đoán rằng “Tịch quyển trường khư” nghĩa là phải đánh mau lẹ như cuộn chiếu vậy. Chúa Trịnh theo lời mở cuộc phản công, nhà Mạc thua thất điên bát đảo. 

Vua Trang Tông không có người kế tự theo dòng đích tôn của vua Thái Tổ, Trịnh Kiểm bây giờ nắm giữ hết mọi quyền hành, tính tự lập làm vua nhưng còn do dự vì chưa chắc được lòng người nên bí mật phái sứ giả ra Hải Dương hỏi ý kiến Cụ Trạng Nguyễn Bình Khiêm. 

Cụ trả lời gián tiếp bằng cách ngảnh bảo đầy tớ rằng: 

“Năm ngoái mất mùa, thóc giống không tốt, đi tìm giống cũ mà gieo mạ”.

Rồi Cụ lại sai đầy tớ ra bảo tiểu quét chùa và dâng hương để Cụ ra chơi. Cụ bảo tiểu: 

“Giữ chùa, thờ Phật thì được ăn oản”. 

Sứ trở về thành thuật lại từng lời nói, từng cử chỉ của cụ Trạng Trình, Kiểm hiểu nên không thi hành dự định cưỡng ngôi nhà Lê nữa, rồi tìm được người cháu truyền tông ông Lê Trừ là anh ruột vua Thái Tổ, tên là Duy Bang, Ở làng Bố Vệ, huyện Đông Sơn, Tỉnh Thanh Hoá đem về lập làm vua. 

Về sau con cháu chúa Trịnh nhiều lần muốn đoạt ngôi vua Lê, nhưng cụ đều khuyên can khéo: 

“Lê tồn, Trịnh tại; Lê bại, Trịnh vong”. 

Tuy nhà Lê suy nhược, nhà Trịnh tóm thâu mọi quyền hành nhưng không có Lê, Trịnh không đứng vững được. Quả nhiên, đời vua Chiêu Thống ngai vàng Lê mất thì dòng Trịnh cũng chẳng còn ngôi chúa nữa.

Bình luận
Ads Footer