NÊN sao chép, chia sẻ, KHÔNG NÊN thương mại hoá.

Nietzsche – Cuộc Đời Và Triết Lý

Phê Bình Của Nietzsche

Tác giả: Felicien challaye
Thể loại: Triết Học
Ads Top

Triết lý Nietzsche thiết yếu là một lý thuyết về các giá trị.

Con người ít nhiều gắn liền ý niệm giá trị vào tư tưởng này hay tư tưởng nọ, vào tình cảm này hay tình cảm kia, vào hành động này hay hành động khác. Vì thường họ phải phán đoán, phải thẩm định giá trị của chân lý với sai lầm, thiện với ác, hành vi nhân ái với sát nhân.

Trước hết Nietzsche chú ý đến sự dị biệt của các giá trị. Nietzsche chứng minh rằng không có giá trị nào gắn liền một cách chắc chắn, không chối cãi, tuyệt đối vào sự vật ngoại tại, cũng như vào trạng thái tâm hồn, vào hành động, lề luật, nguyên tắc, nhưng chính là con người ấn định các giá trị này. Con người (Mensch) là một con vật biết đo lường, biết thẩm định và biết đánh giá.

Nietzscbe tìm biết các thẩm định này từ đâu đến, và người ta minh giải nó ra sao. Việc sáng tạo bằng các giá trị này, đối với Nietzsche, là sự kiện cơ bản của lịch sử nhân loại, bởi chính các phán đoán theo kiểu này đã quyết định cho quan điểm của con người cùng tình cảm và hành động của họ.

Tất cả sẽ đổi thay nếu chúng ta sửa sai giai tầng các giá trị này. Và hẳn nhiên Nietzsche tự hỏi sao không xét lại, không lật đổ các giá trị (Umwerthung aller Werthe).

Trên quan điểm này, triết lý của Nietzsche, như Charles Andler nói, là ” triết lý duy tâm nhất từ trước đến nay, triết lý coi giá trị quan trọng hơn mọi sự kiện và hy vọng một ngày kia biến đổi các sự kiện ra giá trị”.

°

Pbê bình của Nietzsche thường tỏ ra liên hệ chặt chẽ với khẳng định này: là giá trị cao nhất của tinh thần tự do, hoàn toàn độc lập trong khi đi tìm chân lý!

Đó là chủ đề được trình bày nhiều nhất trong cuốn Sự Vật Nhân Bản và trong những tác phẩm về sau, cả đến cuốn Bình Minh. Ngay cả khi không còn tin vào chân lý minh bạch của đời sống và hành động, Nietzsche vẫn giữ lòng yêu tinh thần độc lập. Và ông sẽ tiếp tục phê phán tất cả các lý tưởng cựu truyền mà ông đã khởi đầu đập phá phũ phàng trong quãng đời đã đi qua, quãng thời gian dược mệnh danh duy lý hay thực nghiệm.

Đầu tiên chúng ta có thể đưa ra một định nghĩa dứt khoát về tinh thần tự do. “Kẻ có tinh thần tự do là kẻ suy tưởng khác hẳn với những điều mọi người chờ ở hắn căn cứ vào cội rễ, vào liên hệ, vào địa vị, vào việc làm của hắn vã các lý tưởng tổng trị của thời đại”.

Tinh thần tự do là tinh thần đặc biệt độc đáo, trong khi số đông chỉ làm nên tinh thần nô lệ. Số đông này chịu khuất phục mọi ảnh hưởng xã hội, nô lệ vào thời đại hoàn cành, thời trang. Thái độ tinh thần của bọn chúng, dựa vào thói quen của chúng, chớ không do sự chọn lựa tự do. Tinh thần tự do phải thoát khỏi mọi ảnh hưởng của xã hội, của chế độ, của nhà thờ, của quan niệm quần chúng và cảm thấy rõ cuộc đời nô lệ ẩn nấp sau các thứ tiền tài, danh vọng, của công việc tư. Tinh thần tự do chỉ nghe theo ý thức của riêng mình khi ý thức đó bảo: “Hãy là chính mình hơn nữa, hãy trở nên chính mi”. Tinh thần đó tự vượt lên trên mọi chật hẹp, nhỏ nhoi, riêng rẻ.

Nietzsche kết án lược qua nền triết học chính thống, hiện đại, thứ “triết học chính trị, triết học cảnh binh, phục tòng bọn cầm quyền là loại triết học của nhà thờ, của viện Hàn lâm, của tập quán, của tất cả cái hèn nhát ở con người”.

Người có tinh thần tự do sống khiêm tốn, bằng lòng với một việc làm nho nhỏ, một lợi tức vừa đủ, như vậy mọi xáo trộn kinh tế, thay đổi chính trị cũng không thể phá hoại đời sống chính trị của họ đượm đời sống hiến dâng hoàn toàn cho hiểu biết. Trong lối sống và suy tư của họ ta tìm thấy một chủ nghĩa anh hùng trinh lọc và kín đáo.

Tinh thần tự do đi tím lý trí, tinh thần nô lệ đi tìm tin. Lòng tin chính là thói quen dựa vào các nguyên lý tri thức thu nhận một cánh mù quáng. Tinh thần nô lệ coi là chính đáng mọi cái lâu bền, mọi cái chứa đựng một vài điều lợi ích, cũng như mọi cái mà vì đó người ta hy sinh. Không phải sự khứng chịu cũng không phải điều ích lợi mà chứng tỏ rằng nó thức (thực?).

Hạnh phúc mà kẻ vong thân huởng thụ ở ý tưởng cố định, cứng nhắt muôn năm không chứng tỏ cái hiểu biết đích thực của ý tưởng đó. Một lòng tin mãnh liệt chỉ biểu lộ được sức mạnh của nó, không biểu lộ được chân lý của điều ta tin. Tinh thần tự do từ bỏ ngay các niềm tin của mình khi chúng không còn chân xác, đứng đắn. Bởi đã trung thành với một thứ giả hình như Thượng đế, với vua chúa, với đảng phái, với lề luật tôn giáo, với một người đàn bà, một nghệ sĩ, người ta không còn phải coi có liên hệ đến đời sống: lời hứa thì giả định, bắt theo điều kiện là những vật thể kia sẽ là thực điều chứng hiện trong tưởng tượng của chúng ta. Niềm tin có thể biến thành một thứ tín mộ. Tín mộ, chính là lòng tin rằng, trên một điểm nào đó của tri thức, ta có được chân lý tuyệt đối. Lòng tin đó giả thiết rằng có những chân lý tuyệt đối mà ta có thể đạt đến bằng những phương pháp hoàn hảo, và tất cả người tin mộ đều áp dụng những phương pháp hoàn hảo này. Như thế một tinh thần tự do không thể có tín mộ.

Điều làm cho lịch sử con người dã man, tàn khốc, không phải sự xung đột giữa các quan niệm trái ngược, nhưng là sự xung đột giữa các tin mộ. Nếu mỗi một tín đồ thay vì để trọn đời mình bành trướng niềm tin, thi hãy dùng đến nửa sức lực để tìm kiếm các lý lẽ của niềm tin, được như thế lịch sử con người sẽ mang bộ mặt hòa bình biết bao! và lĩnh vực tri thức sẽ tiến bộ vô cùng.

Tinh thần khoa học đã dần dà bành trường và sẽ tiếp tục bành trướng, nơi con người đức lý kiêng cữ cẩn trọng. Những phương pháp khoa học là kết quả của tiến bộ cũng quan trọng như bất cứ kết quả của khoa học nào. Nếu những phương pháp khoa học bị tiêu hủy, thì tất cả các kết quả của khoa học sẽ không tránh khỏi cuộc chiến thắng mới của mê tín và phi lý. Mỗi người ở thời đại chúng ta phải học cho biết ít nữa là một khoa học nền tảng ; họ sẽ biết thế nào là phương pháp khoa học và cần thiết bao nhiêu cái cẩn trọng cao độ.

“Tiến bộ lớn nhất mà loài người đã đạt được là đã học lý luận xác thực”.

Nietzsche đã thiết lập những quy luật của kỷ luật tri thức khả dĩ làm nên tinh thần tự do.

“Phải học nghệ thuật suy tư như học khiêu vũ như một loại nhảy múa”.

Tinh thần tự do, nếu muốn được gọi đúng như thế phải tránh nô lệ vào tính khí của mình. Chúng ta tìm kiếm một cách vô thức các quan niệm, các nguyên lý hợp với tánh khí của ta, rồi những nguyên lý, lý thuyết này như tỏ ra đã sáng tạo cá tính của chúng ta. Tư tưởng của chúng ta dường như làm nên nguyên nhân của hữu thể của chúng ta, trong khi hữu thể của chúng ta là nguyên nhân của tư tưởng ta. Phải tránh cái phó mặc, buông trôi, cái lập lờ lập lững kia và cái hư ảo chứng minh với chúng ta hợp lý bởi sự kết hợp của hữu thể và tư tưởng.

Phải tập nhìn cho rõ và nhìn tất cả, đặt mỗi vật thể vào giữa trưa đứng bóng, nhìn quanh nó một vòng với đôi mắt chăm chú. Trong nghệ thuật nhìn ngắm này có cái tập tành, đều sửa soạn.

Phải tạo cho quyền lực của mình khả năng nắm giữ cái theo và cái chống: chúng ta càng có đôi mắt lãnh đạm nhìn vào sự vật, chúng ta càng hiểu nó một cách khách quan.

Tinh thần tự do suy tư tự do về chủ đề tinh thần của mình: nó không thể tự che giấu những điều rõ ràng không cần thiết và yếu đuối nơi trí khôn con người. Mặc cho người ta kết án nó là bi quan duy lý.

Phải ngờ vực ngôn từ và thành kiến mà nó bị trói buộc vào (ở đây phê bình của Nietzsche đã đi trước và sửa soạn cho những phân tích của William James và Henri Bergson sau này). Đời sống nội tâm là triều lưu liên tục và không phân chia được, không bao giờ tìm được ở đây những sự kiện tách biệt; những tính trạng đồng nhất. Ngôn từ đưa đến việc cắt nhỏ giòng liên tục này, xem xét những hành trạng rõ ràng, đơn giản, tương tự cái này với cái kia. Chúng ta tin tưởng một cách sai lầm là đã nắm được yếu tính khi gọi tên chúng. “Ẩn nấp trong ngôn từ là thần thoại triết học mà mỗi giây phút đều xuất hiện lại mặc cho mọi đề phòng”. Ảo ảnh của tự do, bao hàm các hành động đặc biệt rõ rệt, do ở cái thuyết nguyên tử học này, thuyết được sáng tạo bởi ngôn từ.

Từ đó cũng phát sinh các ảo ảnh mà người ta gọi là bản ngã. Ngôn từ chỉ định được những trạng thái có đặc tính rõ rệt như yêu, ghét, giận, vui, khổ. Còn các trung gian, các sắc thái khác bị vứt bỏ. Chúng ta không quen quan sát được khi thiếu chữ đề dùng bởi rất khó nhọc khi phải suy nghĩ với cái xác định: thế nên với các danh từ, chữ nghĩa, cuộc hiện sinh đã tự chấm dứt mất rồi. Chúng ta không là hiện hữu của mình trong các điều kiện do ngôn từ quy định cho chúng ta. Chúng ta ngộ nhận: chúng ta tự mình rút ra từ các quan sát kia những kết luận không thực, và các định kiến sai lầm chúng ta đã có đó tác dụng trên cá tính và định mệnh của chúng ta…

Nietzsche tóm tắt thứ “nguy hiểm của ngôn từ đối với tự do của trí tuệ” bằng phương thức như sau: “Tất cả lời nói đều là thành kiến”…

Quả quyết nhìn ngắm kỹ lưỡng bằng hai mắt mở thật to, thật rộng, tinh thần tự do sẽ thực hành được kinh nghiệm rút ra từ cuộc sống của mình, sẽ lao mình vào bao nhiêu cuộc phiêu lưu “tò mò đến phạm tội ác, tìm kiếm đến hung bạo, dữ dằn” – “Chúng ta là chính các kinh nghiệm” – “cuộc đời riêng tư của anh em trở nên khí cụ của hiểu biết, trả lời cho quyết tâm kia là các đường nét của cuộc đời anh em, của thí nghiệm, của sai lầm, tội lỗi, ảo ảnh, đau khổ, yêu thương, hy vọng việc đó tùy thuộc vào chính anh em”. Mọi kinh nghiệm đó sẽ cho phép hiểu rõ ràng nhất các giai đoạn của con người về trước. Cũng nên yêu tôn giáo và nghệ thuật như yêu người mẹ, người vú nuôi, nhưng muốn hiểu rõ ràng nó thì phải vượt qua nó, qua mọi thứ luyến ái yêu thương đó.

Tinh thần tự do lơ lửng bay trên tất cả mọi sự với cái “tự do của chim bằng”. Nó lăn xuyên qua cuộc đời như “cục tuyết suy tưởng”. Đạt đến cái “đãng tử tinh thần” này, nó sẽ là người du hành khoan khoái với cảnh vật thị thành cũng như với nỗi cô đơn riêng tư của mình.

Nhưng người du hành nọ sẽ không ngộ nhận, họ phải biết bóng tối cũng cần như ánh sáng cho biểu hiện xác thực của trần gian. Họ sẽ không phủ nhận bóng tối của mọi vật thể dâng lên ánh nắng chói chan của mặt trời khoa học rủ xuống sau chúng. Quyết tâm nhận ra bóng tối cũng như ánh sáng, tinh thần tự do sẽ phê bình tất cả các lý tưởng cựu truyền, tất cả các thành kiến, tất cả các niềm tin, nó cụng sẵn sàng “xé toạc ra cái gì lôi cuốn nó…”

°

Nietzsche đã bị lôi cuốn bởi siêu hình học của các nhà triết học. nhưng lôi cuốn này vẫn không ngăn cản ông phê phán nó, xé toạc nó.

Ông ngạc nhiên vì các nhà triết học tự nhận mình là kẻ bảo vệ chân lý. “Các anh. quý hiệp sĩ với khuôn mặt buồn thảm, các anh bị mắc kẹt trong góc xó, bị vướng trong màn nhện của tinh thần rồi”. Sai lầm chính là ở nguồn gốc các lý thuyết siêu hình, đó là những phương pháp tri thức tệ hại nhất đã đưa đến niềm tin vào các tư tưởng siêu hình. Ngay khi vén tấm màn các phương pháp này, ta sẽ vứt bỏ nó ngay. Nếu có một thế giới siêu hình rõ ràng đối với thế giới trong giác quan, thì đối với chúng ta, nó không thể hiểu và không thể chấp nhận được, nó chỉ có đặc tính vô nghĩa, tiêu cực. Thế giới vô hình mà người ta tuyên bố là thế giới thực, duy nhất và đánh giá là thế giới chân lý rõ ràng là sản phẩm dối trá.

Ngay như sự hiện hữu của một thế giới như thế được chứng tỏ đi nữa, thì tri thức về nó càng hoàn toàn vô ích cho tất cả chúng ta. Chính trong thế giới có thực, cảm biết được, thế giới của các biểu hiện mà chúng ta gặp nghệ thuật, tôn giáo và luân lý. Epicure kẻ xoa dịu tâm hồn con người thời cổ xưa, đã có được cái nhìn đáng khen, đến ngày nay càng ít có, khi cho rằng giải pháp cho các vấn đề siêu hình hoàn toàn không cần thiết cho sự an nghỉ của ý thức con người: nếu những giả thuyết siêu hình có thực đi nữa, thì nó càng có thể giả trá. Epicure giảng tiếp ngay: ngay khi các giả thuyết siêu hình có thực, nó vẫn chẳng ăn nhằm gì đến chúng ta.

Chúng ta không cần tìm kiếm cái xác thực trên lĩnh vực đó để đưa đến một đời người sống đầy đủ và cao sang, cũng như một con kiến không cần mọi thứ đó để được là một con kiến tốt lành.

Siêu hình học là chất thay thế tôn giáo. Các nhà triết học là những kẻ “nửa thầy tu” hay là “bọn thầy tu mang mặt nạ”. Nhu cầu siêu hình không phải là cội nguồn tôn giáo, nhưng là tôn giáo nôn mửa ra. Dưới sự thống trị của tư tưởng tôn giáo, người ta tưởng tượng ra một thế giới khác, thế giới bên kia. Rồi sự phá sản của các ảo tưởng tôn giáo đã để lại một cảm giác trống không, mất mát, người ta lại lấp cái trống không đó bằng tư tưởng một thế giới siêu hình.

Sự lo âu đến thế giới bên kia làm chúng ta xa dần một cách đáng ghét thế giới các biểu hiện, là thế giới độc nhất có thực. Tách rời thế giới các biểu hiện với thế giới mà người ta xưng tụng là thực tại sâu thẳm, khi theo cách của đạo Ky tô, khi theo cách của Kant,- một tín đồ Ky tô gian trá, kẻ què quặt tư tưởng, chính là triệu chứng của đời sống sa đọa, triệu chứng của suy đồi. Trong nhiều thế kỷ, thái độ triết học được ca ngợi nhất là thái độ khổ hạnh, nhà tư tưởng khinh bỉ hiện tại, xa lánh thế gian, chối từ cuộc sống, xem thường hiện hữu. Thế giới bên kia dùng để mạ lỵ thế giới bên này, tức trần gian chúng ta. Chúng ta phải biết chấm dứt khinh miệt cảnh vật rạng rỡ chung quanh ta. Cái trong ta và quanh ta nói lên biết bao nhiêu màu sắc, bao nhiêu vẻ đẹp, ý nghĩa, huyền bí. Chúng ta phải lọc sạch giòng máu mình, tẩy trừ chất độc di truyền tồn tại ở đây, vớt đi cái khinh bỉ người bên cạnh. Chửng ta phải trở thành “Kẻ đồng loại tốt của người đồng loại”.

Một lịch sử chuyển hóa tư tưởng sẽ là phương tiện tốt nhất để chấm dứt các ảo tưởng siêu hình. Sai lầm trong ý nghĩa lịch sử là tội tổ tông của tất cả các nhà triết học, những kẻ coi con người như một vật thể bất dịch.

Siêu hình học chính là “khoa học coi các sai lầm nền tảng là chân lý nền tảng “, các sai lầm đó là: vật tự thể, hiện hữu vĩnh cửu, bản thể suy tư, linh hồn bất tử, Thượng đế.

Vật tự thể, thực tại sâu thẳm che giấu đằng sau các biểu hiện, là tất cả nên chẳng là gì cả. Và chỉ đáng được tiếp như một chuỗi cười ầm ĩ.

Hữu thể vĩnh cửu, là một trong những “ý tưởng xác ướp” mà mấy ngàn năm nay các nhà triết học vận động trên đó. Không đi đến chỗ lĩnh hội nó, họ lên án các ý nghĩa hoàn toàn vô luân mà họ bảo nó lừa chúng ta về thế giới có thực! Với chúng ta, những tinh thần nhỏ nhoi, không phải là các nhà siêu hình tế toái, chỉ còn lại hoàng cung của biến dịch đổi thay với bốn mùa xuân hạ thu đông…!

Linh hồn bản thể suy tư. Luận cứ Cogito của Descartes – tôi suy nghi, vậy tôi hiện hữu – chỉ có giá trị nếu ta chấp nhận tiên thiên các bản thể, các thực tại thường có. Nói cách khác, tôi suy tư chỉ có nghĩa là đã có tư tưởng.

Linh hồn bất tử! Nhưng hiện hữu của chúng ta thì vô thường, chẳng hạn trong khi theo dõi tra xét lịch sử, chúng ta không cảm thấy tình cảm và tinh thần mình chuyển hoá ra sao? Thay vì có linh hồn bất tử, đã có bao nhiêu linh hồn sinh diệt.

Thượng đế! Ngày xưa kẻ vô thần tìm cách minh chứng không có Thượng đế, bây giờ người ta lại chứng tỏ hình thành lòng tin nơi Thượng đế ra sao. Từ đó cũng chằng cần phải bác bỏ các chứng cớ hiện hữu của Thượng đế. Bác bỏ lịch sử là bác bỏ tất định. Luận lý Ky tô trong hai ngàn năm nay đã dạy về giá trị của luân lý, công lao của chân thực: chính nó đã chiến thắng Thượng đế Ky tô và cấm chúng ta nói cái dối trá của lòng tin nơi Thượng đế. Nếu Thượng đế đã sáng tạo nên thế gian, thì Thượng đế cũng sáng tạo nên con người để làm con khỉ bắt chước Thượng đế, để giải trí cho kẻ “buồn bã ngàn năm” trong cuộc sống hơi quá dài của mình.

Trong mọi trường hợp, Thượng đế đó, như Pascal nói, vẫn giữ hình là “Thượng đế giấu mặt”. Một Thượng đế vạn năng vạn trí, vẫn không ngó ngàng gì đến các ý hướng của mình được hiểu ra sao bởi các vật thể đã sáng tạo nên. Có chân lý trong tay sao Thượng đế không thông đạt cho rõ rằng đến con người mà chỉ sẵn sàng trừng phạt các nghi ngờ của họ. Bổn phận của Thượng đế đối với con người là phải rõ ràng và xác định trong thông điệp trao đến cho con người.

Zarathoustra đã nói những giòng này về Thượng đế Đông phương, tức của đạo Do thái chiết trung: “Thượng đế có đầu óc lầm lẫn. Người hay giận dữ đó, có phải ngài đã giận chúng ta khi hiểu lầm ngài! Nhưng tại sao ngài lại không nói rõ ràng hơn?

Và nếu lỗi ở tại chúng ta điếc, thì tại sao ngài lại cho chúng ta đôi tai tàng tật làm gì? Nếu có đất bùn trong tai chúng ta, thì ai đã bỏ chúng vào đấy?

Có quá nhiều sự việc mà người thợ nắn tay non đó không hoàn thành được. Nhưng ngài lại trả thù trên đồ sứ của mình, trên tạo vật của mình về những điều ngài không thành công được”.

Zarathoustra còn nói tiếp:

“Là một đấng Cha lành, ngài không được quá già sụm với lũ con của mình. Loài người còn có những ông cha tốt lành hơn ngài”.

Zarathoustra kết luận rằng Thượng đế đã chết. Con người đã “giết Thượng đế”.

Nhưng con người, kẻ đã giết chết Thượng đế, họ chẳng nghi ngờ gì về hành động mả chính họ đã hoàn tất, các kết quả đáng khen họ đã đạt được.

Cái cao cả của hành động kia lớn lao quá đối với con người. Những người đến sau chúng ta sẽ thuộc về, bởi tiếp với sự kiện nọ, một lịch sử cao ngất trời chưa từng thấy! “Chúng ta không bị bắt buộc chính mình trở thành Thượng đế ư? Trong mọi trường hợp, chúng ta, những tinh thần tự do, khi được biết Thượng đế cũ đã chết, chúng ta cảm thấy một bình minh mới chói sáng trong ta: một loài ánh sáng mới, một hạnh phúc, một khinh khoái, một đảm lực, một bình thản mới!

Trái tim chúng ta ngập tràn nhận thức, ngạc nhiên, hiểu biết, chờ đợi: một biển đầy đang mở ra trước chúng ta.

Các nhà triết học hãy lên thuyền, đi tìm những thế giới mới đi. Trái đất luân lý cũng tròn thôi, nó cũng có cuối chân địa cầu. Và các điểm đối chân đó vạch theo đường thẳng với cuộc hiện sinh. Phải có một triết lý mới trả lại công lý và mang đến niềm vui cho những kẻ mà lý tưởng cựu truyền quở trách, cho những kẻ đặc biệt, những kẻ khốn cùng.

Sự kết án siêu hình học cũ không bắt buộc phải đưa đến hậu quả từ bỏ tất cả mọi triết học. Một loại triết gia mới trỗi dậy: có lẽ phải gọi tên họ là kẻ quyến rũ.

Nhà tu khổ hạnh và kẻ theo siêu hình học ngày xưa xuất hiện với chúng ta dưới hình dạng loài sâu róm đang bò trong ổ: thế giới ngày nay có phải đã đủ ánh nắng mặt trời, ánh sáng và hơi ấm để cho loài bướm muôn mầu có thể vứt bỏ vỏ cũ của mình và bay lao vào không gian chan hòa ánh nắng… Ngày nay có phải đã đủ kiêu hãnh, bạo gan, can trường của tinh thần tự do thực sự để “nhà triết học” xuất hiện.

°

Nhiệm vụ đầu tiên của nhà triết học đó sẽ là nhiệm vụ phê phán các lý tưởng đạo đức. Tất cả mối dây trói buộc đối nghịch với tinh thần tự do, những dây to lớn nhất, ở những kẻ thanh nhã, là những tình cảm luân lý, những nhiệm vụ. Mãnh lực lớn nhất mà Zarathoustra gặp trên đường du hành của mình, là các lý tưởng mà con người có về cái Thiện và cái Ác.

Tạm thời, phải nghi ngờ hết thảy mọi tình cảm cao quý, cả cho có lẫn lộn với ảo tưởng, với quá độ. Ý chí chân lý, chính là “cái chết của đạo đức”.

Nietzsche không che giấu những mâu thuẫn bên ngoài ở việc làm của ông. Nhân danh một bổn phận, một bổn phận chân thành, ông phê phán bổn phận phổ biến. Chính với ý chí, không tự đánh lừa mình và đánh lừa người khác, ý chí đạo đức chính yếu đã đưa ông đến chỗ đả phá mọi lý tưởng đạo đức. Chính bởi đạo đức đã dẫn đến chỗ phá hủy đạo đức cựu truyền. Những kẻ vô luân lý ngày nay là những kẻ thừa kế những người ngày xưa đã coi Thượng đế như chân lý và chân lý như thánh thiện ; chúng ta mượn ngọn lửa thắp sáng cho chúng ta từ đám cháy hàng bao thế kỷ đã qua đó bởi Platon và những kẻ theo Ky tô.

Được kích thích bởi lòng chân thành đặc biệt của tinh thần tự do này, Nietzsche dành một nỗ lực kiên trì cho việc phê bình các sự kiện luân lý. Ông tìm cách xây dựng một giá trị của các giá trị. Trong tất cả các tác phẩm của mình, từ Sự vật Nhân bản cho đến những bản văn chót, ông nghiên cứu điều mà ông gọi là những định kiến luân lý và ông đề nghị làm lại tất cả lịch sử của nó. Trước tiên ông phê phán lý tưởng của chân lý đạo đức ; ông phân tích và thẩm định giá trị những tình cảm đạo đức. Ông khám phá cái đối nghịch giữa luân lý cha ông và luân lý nô lệ. Nhận xét này góp phần mạnh mẽ vào việc phê bình mà ông luôn luôn làm đối với các bổn phận được đặt để bởi luân lý ngày nay.

Không có luân lý tuyệt đối cũng không có cái thiện tự tạo. Giai tầng sự thiện không đồng nhất với chính nó khắp nơi và mãi mãi: nó thay đổi theo thời gian và không gian. Đức tính luân lý chính là sự vâng phục các thói quen của nơi ta được nuôi dưỡng, và trung thành với truyền thống đã dạy bảo đó chính là bản năng bầy đàn súc vật trong mỗi cá nhân con người. Chính các con lừa và các cô gái già của hai giống đực cái” đã vâng theo bản năng này, hãnh diện vì đức hạnh và cái trong trắng của mình.

Đức tính luân lý, trong nghĩa này, là hình thức của lười biếng. Nó thấy dễ chịu khi vâng phục hơn là phê phán, vui thích khi tin tưởng đã nắm được chân lý hơn là việc đi tìm một quy tắc cbo cuộc sống. Đức tính luân lý có thể ngăn cản sự xuất hiện của đạo đức mới là thứ đạo đức cao đẳng. Văn minh là nô dịch, đối nghịch với văn hóa đích thực, mà có kẻ gọi là thoái hóa. Ý thức luân lý có nguồn gốc ở hội sống, nó không phải là tiếng nói của Thượng đế: nhưng là tiếng nói của vài người trong đám người. Nó chịu ảnh hưởng của quyền lực hội sống và bảo vệ các truyền thống. Nó chỉ lập lại những điều đã được nói lên trước đó. Nó không sáng tạo nên các giá trị mới. Zarathoustra nói: “Người lương thiện là người thích sự vật cổ xưa mà sự vật cổ xưa thì được bảo giám. Còn người cao quý là người muốn sáng tạo cái gi mới mẻ và một đức lý mới mẻ “.

Lý tưởng đạo đức cũng thay đổi với thời gian,: Zarathoustra truyền giảng: “Tôi xin nói với anh. em: chẳng hề có cái thiện, cái ác bất diệt “. Có những khuôn mẫu ở luân lý thời cổ xưa những người được thiên hạ tôn sùng như mẫu mực đức hạnh, như một Épicthète chẳng hạn, không biết đến tinh thần hy sinh, là thứ được người sau ca tụng.

Khẳng định rằng không có các chân lý đạo đức, Nietzsche phê phán đến những tình cảm luân lý khác nhau như tự do, trách nhiệm, hối hận, tội lỗi, v.v…

Không có tự do, bởi mọi hành động đều đã bị quy định bằng lý tưởng. Trong nghĩa này, khái niệm lý tưởng đối nghịch với khái niệm đức tính luân lý. Lòng tin vào ý chí tự do bắt buộc giả thuyết một hành động đặc biệt tách rời đời sống, nó liên quan đến một thuyết nguyên tử học trong lĩnh vực ý muốn và hiểu biết.

Trong thực tiễn, cuộc sống nội tâm của ta không phải là một chuỗi các sự kiện phân đoạn, nhưng là một giòng liên tục.

Thuyết lý của ý chí tự do là sản phẩm của giai cấp lãnh đạo, nhất là giai cấp thầy tu, kẻ tuyên bố con người tự do trách nhiệm lấy nó ; tức cái cho phép họ hay Thượng đế của họ phán đoán và trừng phạt.

Khi tin rằng được tự do, con người cũng tin mình trách nhiệm. Đó là ảo tưởng được hội sống sáng tạo cho họ. Hội sống giáo dục con người và đặt kỷ luật cho con người để biến thành “con vật biết thốt ra lời hứa”. Một con vật muốn hưởng lợi ích của đời sống tập thể phải biết hứa vâng phục vào một số định tắc. Cái “áo bó hội sống ” đó làm cho con người thành nhất định một kiểu và đồng loạt giống nhau. Nietzsche biện luận rằng con người không có tự do, thì không trách nhiệm gì về hành động của mình và hiện hữu của mình. Cá nhân là bọt sóng đáng thương của cơn sóng biến dịch cần thiết. Trừng phạt một kẻ phạm tội là trừng phạt số mệnh muôn thuở. Nhà triết học phải nói như Jésus. “Đừng phán đoán “, họ muốn được công chính, thay vì bị phán đoán.

Để đóng đinh vào ký ức con người các lời hứa đã làm sẵn, để ngăn cản con người quên đi những lời “tôi không muốn”, hội sống đã dùng những phương tiện ghê tởm ngược nhau: thời tiền sử chẳng có gì tàn bạo bằng phương pháp nhét vào ký ức của luân lý. Bị nhốt trong gông cùm hội sống con người không cần biết lợi dụng những bản năng của tự do hoang dã, căm hờn, tàn khốc, nhu. cầu lấn át. Từ đó họ quay sang chống lại chính mình. Không thể hành hạ kẻ khác, họ quay sang hành hạ mình: vì thế sinh ra ý thức ngụy trá, cơn bịnh trầm trọng nhất của con người. Linh hồn áp dụng cho mình ý chí hùng tráng của chính nó, nó tự làm đau khổ vì sung sướng khi. gây đau khổ. Phần khác ý niệm luân lý của lỗi lầm có nguồn gốc là khái niệm tất cả chất liệu của nợ nần (tiếng Đức Schuld chỉ định cả hai nghĩa trên). Kẻ mắc nợ, để ghi sâu trong ký ức mình số tiền phải trả và cũng để gây lòng tin nơi chủ nợ ; phải hứa với người này rằng, trong trường hợp hắn không trả được, sẽ đền bù cho họ tài sản mà hắn còn lại, nghĩa là thân xác hắn, vợ hắn ; tự do của hắn hay chính cuộc đời riêng tư của hắn. Người chủ nợ sẽ lấy lại nợ bằng cách khinh khi, bạc đãi, hành hạ con nợ.

Thế nên liên lạc giữa cộng đồng hội sống với nhau chính là liên lạc giữa chủ nợ và con nợ: Hội sống trừng phạt những ai không giữ lời hứa đã trao, như chủ nợ trừng phạt con nợ.

Khái niệm nợ nần dần dà áp dụng vào các tương quan giữa các thế hệ hiện thời và các thế hệ đi trước nó. Người ta tin rằng nòi giống chỉ có thể tồn tại nhờ sức lao động và hy sinh của tổ tiên, những người này sống lại trong tinh thần hùng tráng và tiếp tục bảo vệ chủng tộc họ. Thế hệ ngày nay phải hoàn lại số nợ đã mắc họ bằng lao lực và hy sinh.

Tổ tông xa xưa nhất đã biến hình thành Thượng đế bằng tưởng tượng và sợ hãi: Từ đó con người tin mình mắc nợ với Thánh Thần. Những ý niệm uẩn ức này nuôi nấng cho ý thức ngụy trá. Các tăng lữ, là nghệ sĩ trong lĩnh vực này, dạy cho con người biết rằng nếu họ đau khổ chẳng qua vì họ chống trả nợ cho Thượng đế, vì họ đã phạm tội. Con người mang ý thức ngụy trá chụp ngay lấy tà thuyết tôn giáo để đẩy nỗi khổ nhục của mình lên đến cùng độ: họ tin mình là kẻ phạm tội, họ sung sướng trong cái đê tiện của mình, trong cái tự khổ hình đóng đinh thập tự của mình.

Họ coi mọi hành động tự nhiên là tội lỗi, chẳng hạn hành động truyền giống. Họ coi mọi thứ đau khổ đều là trùng phạt, họ tìm trong đau khổ một phương tiện giảm tội lỗi của mình. Tội lỗi là “biến cố cơ bản trong lịch sử những tâm hồn bệnh hoạn”.

Phải tránh cho con người ảo tưởng tội lỗi, phải lột bỏ ý thức ngụy trá ở họ: họ là kẻ vô tội nhất mà họ không ngờ được. Khi họ không còn tự xem là xấu xa, ngụy trá, họ cũng sẽ không còn là tội lỗi nữa. Con người và thế gian phải xuất hiện lại trong buổi bình minh, vô tội trong trắng. Phải trả lòng trong sạch lại cho khổ đau bằng cách chấm dứt lẫn lộn vào đây ý tưởng phạm tội. Hối hận sau khi đã hành động sai lầm chính là một dại dột thứ hai thêm vào dại dột thứ nhất. Lòng hối hận về một hành động của mình, đó không phải là cách để sửa chữa hành động này: hành động không xóa được bằng hối hận. Phải là một nhà thần học thì mới tin được có một sức mạnh xóa bỏ lỗi lầm. Điều đáng giá hơn cả là phải vô luân và không tin vào lỗi lầm.

Không có tội ác vĩnh cửu, cũng không có phần thưởng đời sau. Vả lại, cũng rất lạ lùng khi thấy đức hạnh mà còn đòi phần thưởng. Hãy nghe Zarathoustra về điểm này:

“Hỡi người đức hạnh, bạn muốn được trả nợ ư? Bạn muốn được đền bù phần thưởng về đức hạnh của bạn, muốn có ngôi vị ở trần gian, trên cõi trời, chỗ vĩnh cửu trong hiện tại của bạn ư?

” Bạn có phẫn nộ không khi nghe tôi giảng rằng chằng có trả nợ không có đền bù. Thực ra tôi cũng chưa nói rằng đức hạnh, chính tự nó đã là một phần thưởng rồi! (

“Hỡi ơi đó là nỗi buồn tiếc của tôi. Người ta đã xảo quyệt du nhập vào tận trong lòng vật thể ý niệm phần thưởng và trừng phạt và vào ngay tận cùng tâm hồn của các bạn nữa, hỡi người đức hạnh.

“Nhưng cũng như răng nanh con heo rừng, lời nói của tôi xé nát tận cùng tâm hồn bạn. Tôi muốn được là lưỡi cày đối với bạn.

“Bạn yêu đức hạnh của mình như người mẹ yêu con. Nhưng có bao giờ người ta nghe người mẹ đòi trả giá về tình yêu thương của mình đâu?

°

Chúng ta gặp trong tất cả các tác phẩm của Nietzche lời phê phán các tình cảm đạo đức. Công trình phê phán đó đạt đến một chuẩn xác đặc biệt lôi cuốn khi ông khai triển ý tưởng luân lý chủ ông và luân lý nô lệ. Chủ đề này được trình bày rải rác trong vài trang của cuốn Sự Vật Nhân Bản và cuốn Người du hành và chiếc bông, nhất là ở hai cuốn Bên kia cái Thiện cái Ác và Phổ hệ luân lý.

Trong một trang nổi tiếng của cuốn Bên kia cái Thiện và cái Ác Nieztsche viết:

“Trong cuộc du hành của tôi xuyên qua các nền luân lý, tinh tế hay thô lậu, đã và đang thống trị trên mặt đất này, tôi quan sát được vài đường nét đã liên hệ thứ luân lý này vào thứ luân lý kia và các đường nét đó tỏ ra cùng một lượt. Thế nên tôi khám phá ra được hai mẫu mực cơ bản chia cách nhau bởi một khác biệt chính yếu: luân lý chủ ông và luân lý nô lệ – Trong mọi nền văn minh cao đẳng đều có đặc tính trộn lẫn này, người ta có thể kiểm chứng những khuynh hướng muốn điều hòa chúng, hay thường là lẫn lộn chúng, một ngộ nhận cả hai phía. Đôi khi ta gặp chúng được đặt song đôi chặt chẽ, kết hợp cùng ở một người ở tận trong một tâm hồn duy nhất. Sự ấn định các giá trị luân lý diễn ra khi thì giữa lòng chủng tộc thống trị, những kẻ ý thức và kiêu hãnh về khoảng cách chia họ và kẻ bị trị, hay trong lòng chủng tộc bị thống trị, giữa những người nô lệ và hạ cấp”.

Người hùng tráng và cao thượng, người quý phái tự nhận ra quyền chính mình ấn định giá trị của mọi vật thể và mọi hành động, họ là người sáng tạo các giá trị. Giữa con người họ tuyên bố tốt vật bình đẳng với mình, và xấu cho vật hạ đẳng ; giữa các hành động, họ tuyên bố tốt điều ích lợi cho họ và xấu điều làm hại họ.

Họ coi chủ nghĩa ích kỷ riêng của mình là việc bình thường. Họ ca ngợi bạo lực, hùng cường, sức mạng, lòng can đảm, sự khắt khe và làm chủ chính mìnb. Họ khinh bỉ cuộc sống và hạnh phúc nhưng họ vẫn vui sống, có lòng tin nơi mình và kiêu hãnh về mình. Họ biết lúc phải nói và lúc phải im lặng. Họ kính trọng tuổi già và truyền thống, hai cái kính trọng này là nền tảng quyền hành của họ. Họ chỉ nhận có bổn phận đối với người bình đẳng vâng theo những người này bằng quy luật của thứ lễ độ sành sỏi chứng minh tình bạn, lòng chung thủy và sự tế nhị của mình.

Nhưng những kẻ nô lệ, bị bọn chủ ông khinh bỉ, chà đạp, đối xử tàn ác đã trả thù bằng cách thiết lập những gía trị khác. Họ quy định các giá trị này bằng cách đặt đối ngược với các giá trị trưởng giả: hành động của họ chỉ là một phản ứng. Lòng oán ghét thù hận của những kẻ yếu hèn đã bóp méo hình ảnh những người cao thượng; trong đầu óc họ những người này đã biến thành bọn quỷ dữ khôi hài. Cái tàn ác của luân lý mới, chính là lương thiện của luân lý cũ, nghĩa là cái gì hùng cường, thuộc về kẻ thống trị, tức kẻ gây ra sợ hãi.

Từ lòng cay đắng kẻ mạnh, bọn hèn yếu liên tưởng đến một quan niệm bi quan về cuộc hiện sinh: họ muốn tự tin, và cho cả người khác nữa rằng không hề có hạnh phúc đích thực. Họ tuyên bố là đức hạnh các phẩm tính có thể xoa dịu cuộc đời những kẻ xấu số: kiên nhẫn, mực thước, tử tế và nhất là tình thương. Do đó họ ca ngợi một loài sâu đất hèn nhát, một thứ cừu non dại. Người lương thiện chính là kẻ vô hại, hiền khô, lù đù, dễ gạt, có một chút đần độn, người tử tế.

Trên phương diện lịch sử, ta có thể khám phá thứ luận lý của những kẻ nô lệ này trong đạo Do thái và đạo Ky tô, (ta sẽ trở lại sự kiện này sau). Thành La mã, người tiêu biểu cho lý tưởng quý phái, bị bọn Judée đánh chiếm. Đến thời Phục hưng chúng ta nhận thấy một thức tỉnh kiêu hùng và lớn lao của lý tưởng cũ, của đường quay về bản gía trị cao thượng của con người và sự vật, nhưng phong trào cải cách của bọn tiện dân đã chiến thắng Phục hưng cao quý kia. Rồi giai cấp quý phái của thế kỷ 17 và 18 suy sụp hoàn tòan duới nhát búa của lòng dân chúng oán hờn với Cách mạng Pháp. Lý tưởng cao quý hóa thân lần cuối cùng với Napoléon, “Một tổng hợp của siêu nhân và phi nhân”.

°

Xác nhận rằng các giá trị của bọn nô lệ đã đau đớn chiến thắng chúng ta, và mọi quan niệm hiện thời đều bắt nguồn từ đó, Nietzsche thẳng tay phê bình mọi bổn phận mà luân lý đã buộc vào ta.

Luân lý của chúng ta cấm tự tử. Đạo Ky tô nguồn gốc chỉ chấp nhận việc tự tử bằng hai hình thức, là hai thứ được đặc biệt ca ngợi, sự tuẫn đạo và mòn héo vì tu khổ hạnh. Tôn giáo hiện đại chỉ cho phép lối tự tử dần mòn này một cuộc đời nhỏ nhoi, trưởng giả và tầm thường -. Thế nên tư tưởng an ủi mãnh liệt: nó giúp ta qua một đêm khó ngủ. Cái chết cố ý là chiến thắng của lý trí trên nhiên tinh. Kẻ tự tử có thể làm đỡ gánh nặng cho hội sống, cho người khác. Sự kiện tự hủy diệt là một hành động đáng giá: người ta có thể thu nhặt ở đó luật sổng…

Luân lý cựu truyền dạy ta khinh bỉ thân xác: truyền giảng sự trinh bạch, đề cao đau khổ, đặt nó lên trên niềm vui. Thành kiến tinh thần thuần túy kéo theo sự hủy hoại sức thần kinh, tàn phá sinh lý và cưỡng bức linh hồn. Zarathoustra lên án “những kẻ khinh bỉ thân xác”:

“Tôi là thân xác và linh hồn – trẻ con đâ nói như vậy Tại sao ta không nói như trẻ con?

“Nhưng người ý thức và nhìn thông suốt hơn sẽ nói: Tôi hoàn toàn thân xác và chẳng có gì nữa. Linh hồn chỉ là một tiếng để gọi một phần của thân xác”.

Zarathoustra còn nói thêm về lòng trinh bạch:

“Tôi đã khuyên anh em giết chết cảm giác của mình ư? Tôi khuyên anh em nhớ đến cái vô tội của cảm giác. Ở vài kẻ, lòng trinh bạch là một đức hạnh, nhưng ở phần đông nỏ là một tội lỗi.”

“Một vài kẻ tiết dục, có thể. Nhưng nhục dục lẫn lộn trong mọi hành động của họ.”

Ý tưởng đặt đau khổ lên trên niềm vui hoàn toàn làm u tối thêm cuộc hiện sinh. Luân lý là tên đại vu khống, là thuốc độc thực sự của cuộc đời. Nó giao các đức tính phá hoại cho những cả nhân thực hành nỏ. Hoàn toàn bị thâm nhập bởi lối khổ tu vô lý, nó chống lại tất cả cái chi là người và vật sống, là vật chất. Nó kinh sợ hạnh phúc và cái đẹp. Nó lên án bản năng và các khuynh hướng tự nhiên của con người. Luân lý làm chúng ta trở thành bất công với bản nhiên của minh và với mọi bản nhiên khác. Nó sửa soạn và tán trợ suy đồi. Kết luận sau cùng của nỏ là sự hủy diệt phổ biến, là chủ nghĩa hư vô…

Luân lý ca tụng lao động. Ở châu Mỹ người ta cực lực hối hả làm việc và người ta điên cuồng đi tìm vàng. “Tội lỗi thế giới mới đó” lan tràn đến Châu Âu cổ kính. Người ta xấu hổ phải nghĩ ngợi, khi suy tư ; người ta không còn thời gian để nói chuyện, để thư từ: người ta không dám sống cuộc đời chiêm nghiệm, không dám nhàn du với bạn bè. Sự giải trí chỉ thích hợp với bọn nô lệ đã kiệt sức vì làm việc Trong việc ca tụng lao động này, ta tìm thấy sự sợ hãi tính cá nhân và những khao khát độc lập của nỏ. Người ta tin rằng lao động sẽ dùng sức thần kinh, sẽ khuấy động suy tưởng, mơ mộng, tình ái, thù hận cùng lúc sẽ ràng buộc khoái lạc và lý

trí, sẽ cầm giữ mỗi người trong khuôn khổ, và sẽ là cơ chế điều hành tốt đẹp nhất. Người ta càng làm việc an ninh hội sống càng được bảo đảm. Nhưng sự chờ đợi, ở điểm tận cùng đỏ đã hoàn toàn thất vọng bởi ngày nay, những người lao động đã tự chứng tỏ vô cùng nguy hiểm!

Kết án chủ nghĩa ích kỷ, nền luân lý của chúng ta truyền dạy phải hy sinh cho kẻ khác, phải vị tha. Một nhà tư tưởng tự do như Auguste Comte, kẻ “vượt quá Ky tô bằng Ky tô” truyền giảng châm ngôn thời danh của minh: hãy sống cho người khác. Nơi đây chỉ làm cho cả nhân thêm yếu đuổi, và đi ngược lại sự phát triển của nỏ. Người ta chỉ giúp kẻ khác bằng lời nói, bằng bề ngoài, và ít ra cũng muốn nhúng tay vào cuộc đời kẻ khác một cách độc đoán. Phải khinh bỉ kẻ khi muốn làm người nhân hậu, lại không chứng tỏ nhân hậu được với chính minh. Và họ sử dụng tài sản của mình: chính cái dục vọng chiếm hữu người khác đã biến họ thành kẻ hy sinh, cứu giúp ân cần, tận tâm.

Zarathoustra bảo:

“Bạn xoắn xuýt với người đồng loại, bạn nói với người này bao lời lẽ hay ho. Nhưng tôi bảo bạn điều nầy, tinh yêu người đồng loại của bạn, chính là tinh yêu bạn xấu xa nhất.

“Bạn đi vào người đồng loại đề chạy trốn với chính bạn. Chính lẽ đỏ xui bạn làm điều đức hạnh. Nhưng tôi, tôi hiểu thấu cái lòng hy sinh không vụ lợi của bạn…

“Bạn không thiết chống đỡ cho chính bạn và bạn không yêu chính mình cho đầy đủ, vì thế bạn muốn cù rủ người đồng loại bằng tình thương của bạn”.

Thay vì giúp đỡ người khác một cách giả tạo, sao ta không phụng sự họ một cách đắc lực nhất là biến đổi con người họ thành tác phẩm mà mọi người đều nhìn ngắm vui tươi, như một khu vườn xinh dẹp êm đềm với cánh cổng chào mời hỏi han? Trong những tình cảm vị tha, luân lý tán tụng nhất là lòng thương hại. Schopenhauer cũng đặc biệt ca ngợi nỏ. Nhưng thoát ra khỏi sự quyến rũ

của nhà bi quan vĩ đại kia, Nietzsche gắt gao lên án tình cảm đỏ. Trước tiên ông khám phá ra ở nó tất cả chủ nghĩa ích kỷ, đạo đức giả. Nỗi đau khổ của kẻ khác làm ta lo sợ khi nỏ vén cho ta thấy nỗi nguy hiểm mà ta cỏ thể là nạn nhân ; nỏ làm tổn thương ta khi cho ta nhìn cái bất lực hay hèn nhát của mình.

Đôi lúc chúng ta còn muốn có kinh nghiệm về một nỗi đau khổ tương phản với hạnh phúc của riêng ta, hay, ta còn muốn giải nỗi sầu trong cuộc sống của mình. Nếu đứng trước một người đang đau thương của người kia, đó là nỗi khổ sở của riêng ta, cũng như đau thương là của riêng người đó, và vì thế ta phải giải thoát đau khổ của mình bằng một hành động trắc ẩn. Nếu kẻ đau đớn kia không chấp nhận hành động trắc ẩn của ta, ta thấy mình bị tổn thương thực sự.

Phần lớn các ân huệ người ta ban phát cho những kẻ khổn cùng, thực ra đều là những hành động xấc xược thản nhiên châm chọc ngay vào bản tính chân thực của nôi đau khổ ở họ. Những kẻ làm ơn cho ta đã hạ thấp và sỉ nhục ta còn hơn cả kẻ thù của ta nữa.

Zarathoustra bảo:

“Sự thực là tôi không hề ưa họ, những kẻ từ bi chuyên đi tìm kiếm cái toàn thiện trong lòng thương hại của mình, chúng hoàn toàn thiếu trong sạch.

“Nếu tôi phải làm một kẻ từ bi, thì trong tất cả các trường hợp tôi không muốn người ta gọi tôi như vậy.

“Thấy đau khổ kẻ đang đau khổ, tôi xấu hổ vì nỗi xấu hổ của họ, và khi tôi chạy lại giúp đỡ họ, tôi đã làm thương tổn nặng nề lòng kiêu hãnh của họ.

“Tất cả tình yêu thương lởn lao đều vượt lên trên lòng tha thứ và thương hại”

Phần khác, lòng thương hại làm cho đau khổ truyền nhiễm khắp nơi, nó gia tăng nỗi kiệt lực mà đau khổ đã du nhập vào trần gian.

Sau cùng, lòng thương hại không biết giới hạn việc tăng trưởng những kẻ cùng bỉ, nó còn giữ chúng lại. Nó đối nghịch với quy luật cơ bản của tiến hóa, với nguyên lý chọn lọc là nguyên lý đào thải những kẻ yếu hèn và thay vào những người hùng tráng. Nó cứu vớt những kẻ đã đến hồi phải tiêu diệt. Nó ngăn cản nòi giống thải hồi cặn bã và thanh lọc hàng ngũ. Nó góp phần làm đen tối thêm cuộc đời. Khuynh hướng ẩn giấu trong nó chính là khuynh hướng hiềm thù chống nghịch. Lòng thương hại là triệu chứng của suy đồi, là nguyên nhân của suy đồi.

Người ta chỉ có thể giúp đỡ hữu hiệu ai mà ta đã hoàn toàn hiểu nỗi đau đớn, tức là những người bạn. Và chỉ có phương cách giúp đỡ độc nhất là để họ học lấy niềm vui.

Trong một trang sách khác, Nietzsche vẫn tiếp tục lên án sự phụng thờ đau khổ và lòng thương hại tầm thường, ông đã nhận ra giá trị nơi lòng thương của kẻ mạnh, người đem năng lực mình bảo vệ kẻ yếu đuối, kẻ bị áp bức và ngay cả thú vật. Ở đây nó bày tỏ lòng đại lượng vô tư, có cả khi vô lý, ở những hạng người siêu đẳng đó, mà bọn người tầm thường không thể nào hiểu được, hay chúng cho là điên khùng, vì “với cỡ người tầm thường thì mọi tình cảm cao thượng và quảng đại đều không có thực: họ nheo mắt khi nghe nói đến chúng. Ở đây nó mô tả tính nhã nhặn của người hiểu biết, dù cho mọi khác biệt về thiên tư, về điều kiện và cách thế, vẫn đối xử bình đẳng với mọi người. Và họ ca ngợi tính đáng yêu này trong mọi tương giao, liên lạc với người khác, -vì họ đã biết thực hành tốt đẹp- đôi mắt rạng ngời, cánh tay chào đón, cõi lòng chân thực: “sự thân ái nhã nhặn và lễ độ của trái tim tuôn ra dạt dào từ bản năng hướng đến người khác; chính chúng đóng góp nhiều vào cho văn minh con người hơn mọi lòng trắc ẩn, từ bi, hy sinh của cùng một bản năng nọ” và hơn nữa, ta phải biết đào luyện ở mình những tình cảm đẹp sáng ngời đó: “phải học yêu thương”.

°

Trong những bổn phận mà luân lý cựu truyền dặn dò, Nietzsche đặc biệt phê phán các bổn phận đối với tổ quốc. Nietzsche bảo, chúng ta, những “tinh thần tự do”, những đứa con của ngày mai, chúng ta là kẻ thù của tất cả khuynh hướng yêu nước rởm, chúng ta là những người không tổ quốc. Lòng yêu nước, đối với chúng ta là một tình tự lạc hậu, thiếu phẩm giá.

Buôn bán và kỹ nghệ, trao đổi thư từ sách vở, tính chất quốc tế của nền văn hóa cao đẳng, việc di chuyển dễ dãi, những sự kiện này đã đưa đến sự suy yếu và sửa sọan sự sụp đổ của các quốc gia, ít ra là các nước Âu Châu. Sự tiến bộ rõ rệt trong việc dung hợp các dân tộc, mặc cho chủ nghĩa quốc gia đối kháng lại, và đó chỉ là hành động rồ dại, phi lý, và ngược hẳn với nền văn hóa đích thực. Chủ nghĩa quốc gia phải dùng dối trá, mưu mẹo và bạo lực để giữ tín dụng. Đó không phải là lợi ích chung của dân tộc, mà là lợi ích riêng của các triều đại bảo hòang và của một vài giai cấp lãnh đạo đã xử dụng phong trào quốc gia đó. Khi đã nhận chân được sự kiện này, ta không còn lo ngại phải nỗ lực cho công trình dung hợp các dân tộc.

Tuy nhiên chúng ta, những tinh thần tự do, cũng không thể tự gọi mình là những nhà nhân bản, chúng ta không làm trò hề cho những thứ đó! Chúng ta là những người Châu Âu tốt. Tiếng Châu Âu ở đây phải hiểu là lãnh thổ rộng hơn mảnh đất mà Châu Âu địa lý chiếm ngụ, “bán đảo nhỏ bé của Châu Á”, người ta bao gồm cả ở đây Châu Mỹ, là đứa con gái của văn minh chúng ta. Châu Âu tự định nghĩa bằng văn minh của mình: đó là một toàn bộ các dân tộc có cùng quá khứ chung trong Hy lạp và La mã cổ xưa. trong đạo Do thái và đạo Ky tô. Châu Âu mắc nợ Hy lạp tinh thần khoa học của mình: đó là tư tưởng duy lý và tinh thần phê phán, điều làm cho nó thấy mình cao hơn Châu Á là nơi vẫn còn chưa phân biệt được thơ ca và chân lý.

Người ta có thể thấy trước một hợp nhất, trước tiên là kinh tế của các dân tộc Châu Âu, ở đây mỗi nước sẽ là một bang có những lề luật riêng biệt. Sự cải biến các biên giới sẽ tùy thuộc vào lợi ích của từng nhóm và của toàn bộ hơn là tùy thuộc ký ức lịch sử.

Không tổ quốc, tinh thần tự do không có một ràng buộc nào với Nhà Nước. Zarathoustra tố giác thần tượng mới đó:

“Nhà Nước, đó chính là con quỉ lạnh lùng nhất trong những con quỉ lạnh lùng. Nó nói dối trơ trẽn. Đây là lời dối trá bò trên miệng nó: ta là Nhà Nước, ta là Dân Tộc”

Những tâm hồn vĩ đại phải sống ngoài ý niệm Nhà Nước ; nơi chấm dứt Nhà Nước là nơi bắt đầu đời sống tự do. “Còn lại những nơi chỉ dành cho những người cô độc, những nơi nghe nồng mùi gió mặn lồng lộng thổi từ bờ biển câm nín ra đi…”

Nietzsche coi chủ nghĩa quân phiệt của Nhà Nước hiện đại là xiềng xích trở ngại cho văn hóa. Ông mô tả giới quân đội là nơi con người được nuôi nấng bởi tập thể dân chúng, được cho mặc các thứ y phục nom như đám người đeo mặt nạ, mất thì giờ trong việc di chuyển và tháo ráp vũ khí; là nơi người này hách dịch truyền lệnh và kẻ kia mù quáng nghe theo, là chỗ ông xếp rống tiếng chỉ huy và thuộc hạ cắm cúi bắt chước, cằm cúi làm thêm nghiêm trọng cái giọng điệu thô bỉ đó. Một tổ chức như vậy chỉ có mặt ở các hội sống cổ xưa, lúc bị các nguy hiểm trầm trọng đe dọa, ngày nay nó là vật đã lỗi thời, là di cảo của quá khứ.

Không có một chính quyền nào cả gan thú nhận họ tổ chức quân đội để có cơ hội, thỏa mãn các chinh phục thèm khát của mình. Họ quả quyết là chỉ bận tâm tới việc tự vệ chính đáng mà thôi.

Nietzsche viết, trong một trang rất cảm động của cuốn Người du hành và chiếc bóng: “Phải từ bỏ lý thuyết quân đội được coi như phương tiện phòng thủ và cũng rất rõ ràng như thèm muốn chinh phục. Một ngày nào đó có thực một dân tộc, nổi bật trong chiến tranh và trong chiến thắng bởi phát triển cao nhất của kỷ luật, của thông minh quân sự, đã quen dành cho hoạt động kia những hy sinh nặng nề nhất, sẽ tự do reo lên: “Chúng ta bẻ kiếm”, và phá hủy các tổ chức quân sự từ nền tảng. Trở thành vô hại ngay giữa lúc đáng sợ nhất, dưới sự ngự trị của một tình tự cao cả. đó là cách duy nhất để đưa đến một hòa bình đích thực, một hòa bình xuất phát từ tinh thần chủ hòa. Thà chết hơn oán thù, và thà chết hai lần còn hơn để oán thù và sợ hãi. Một ngày nào đó lề luật này phải là nguyên lý cao cả cho tất cả các hội sống hòa điệu.”

Tuy nhiên, bằng một bất nhất lạ lùng, người không tổ quốc Nietzsche trong những trang khác lại tán tụng chiến tranh hết mực. Chiến tranh hẳn nhiên có điều là làm cho kẻ chiến thắng tàn bạo và người chiến bại hung dữ. Nhưng nó có cái lợi là đánh thức lòng dã man và đưa về nhiên tính. Đối với văn minh con người nó là một giấc ngủ, một tạm nghỉ trong mùa mưa: từ chiến tranh con người là kẻ hùng mạnh nhất với cái thiện cũng như với cái ác. Nó đem đến cho các dân tộc nhọc nhằn những phẩm tính quý giá như năng lực gắt gao của chiến trận, lòng lạnh lùng trong hành động sát hại kết hợp với ý thức rõ rệt, và cái thản nhiên của con người trước mạng sống của riêng mình và của những người mình yêu quý. “Hỡi anh em chiến binh, Zarathoustra nói, tôi yêu thương anh em đến tận đáy lòng…

“Anh em phải yêu hòa bình như là phương tiện cho cuộc chiến mới. Hòa binh ngắn ngủi đáng giá hơn hòa bình dài lê thê.

Tôi không khuyên anh em lao động, nhưng tôi khuyên anh em chiến đấu. Tôi không khuyên anh em hòa bình, mà tôi khuyên anh em chiến thắng. Lao động của anh em là chiến đấu, hoà bình của anh em là chiến thắng!

“Chiến tranh và can trường làm nên việc vĩ đại hơn là lòng yêu thương đồng loại”.

Người ta hiểu tại sao trong cuộc chiến tranh 1914- 1918 ở Đức đã cho ấn hành và truyền bá bản in nhỏ dành cho quân đội (Feldausgabe) ghi những lời trích dẫn của Zarathoustra…

Napoléon, người kế tục phong trào Phục Hưng đã có vinh dự tạo lại một thế giới nơi đó người chiến thắng bọn mại bản, trọc phú và đàn bà. Chính ở ông người ta tiên cảm được một chuỗi dài nhiều thế kỷ chiến tranh, nhờ ông người ta đã tiến vào thời đại chiến tranh khoa học và nhân dân. Có lẽ chủ nghĩa anh hùng cổ xưa sẽ chiến thắng tình tự quốc gia, và có phải người ta sẽ thấy giấc mơ của Napoléon thực hiện: một Châu Âu hợp nhất để tiến đến việc trở thành chủ nhân thế giới.

Quan niệm cuối cùng này, khi gợi ra tranh chấp giữa các lục địa, có thể cho phép Nietzsche dung hòa được tinh thần Châu Âu cao cả và tình yêu chiến tranh của ông. Tuy nhiên trong một trang di cảo của cuốn Ý Chí Hùng Tráng, ông đòi hỏi con người phải trở nên người Siêu Châu Âu khi dàn trải tầm mắt mình ra bốn phương.

Lúc nào Nietzsche cũng không ngừng chỉ trích nước Đức, tổ quốc mình, “xứ không thành lũy của Châu Âu”, những người Đức, “những người mảnh vụn”, những chuyên viên thỏa mãn về lĩnh vực chuyên biệt nhỏ hẹp của mình và Đế chính Đức cùng với những vĩ nhân của quá khứ và hiện tại. Phương châm: Nước Đức trên hết đối với ông là khẩu hiệu ngu xuẩn nhất.

Có cần phải lưu ý người ta sẽ không là Nietzsche nếu ta tự giới hạn mình bằng cách lặp lại dễ dàng sự kết án chủ nghĩa Đức đó. Về điểm này, lý thuyết Nietzsche đích thực nằm ở việc phê phán tổ quốc riêng của mình bằng cả tinh thần tự do mà một người Đức là Nietzsche đã làm đối với nước Đức.

Siêu hình và luân lý mà Nietzsche cực lực kết án là hai thứ đã thâm nhập tinh thần Do thái – Ky tô. Người ta hiểu rõ rằng Nietzsche phê phán chính đạo Do thái và Ky tô. Ông thực hiện hành động đó với vẻ gắt gao khác hẳn với cái dịu dàng mà, ở quãng đầu của cuộc đời ông đã cảm nhận được ở đạo Cơ Đốc, với cảm tình tốt mà ông đã bày tỏ, ở những trang tác phẩm cũng như ở thư từ, đối với con người của Jésus, “người xứng đáng nhất của tình yêu”

Người Do thái đã có những thành tựu đầu tiên trong việc lật đổ các giá trị do người quý phái Aryen dựng lên. Với họ, “cuộc nổi dậy của bọn nô lệ trong lĩnh vực luân lý” đã bắt đầu. Các nhà tiên tri của bọn họ đã đồng nhất hóa một phần những tiếng giàu sang, hùng cường, mãnh liệt, nhục dục, hung dữ, vô đạo, phần khác với những chữ nghèo khổ, yếu hèn, tốt lành, bạn hữu, và thánh thiện.

Jésus de Nazareth là địch thủ của nước Do thái, cho nên chính Người là kẻ chiến thắng các giá trị mới của dân Do thái. Đạo Ky tô là “tôn giáo chống Aryen mãnh liệt nhất” – kẻ cứu rỗi kia đã mang đến cho người nghèo, người bệnh và người tội lỗi cái toàn thiện và chiến thắng, nghĩa là cái quyến rũ nấp dưới hình thức khó chống cự nhất và nguy hiểm nhất. Bao nhiêu là lừa lọc và đảo lộn với cái biểu tượng “chữ thập thánh” cái nghịch lý ghê gớm của một “Thượng đế đóng đinh trên thập tự”, cái thần thoại độc ác ghê tởm của một Thượng đế tự đóng đinh mình vì muốn cứu rỗi con người!

Chung quanh các thầy tu kiêu căng, hung dữ và ưa báo thù, những con trùng ký sinh sống thịnh vượng nhờ vào cơ thể hội sống và cơ năng thánh thiện, tụ tập tất cả những kẻ khốn cùng. Bọn họ mơ tưởng đến một cuộc cách mạng xã hội thực hiện ở thế giới bên kia, một đời sống tương lai nơi được đền bù những đau khổ ở trần gian này, nơi họ vui sướng tham dự vào cuộc hành hình các kẻ thù lợi hại nhất của họ. Trên quan điểm này đạo Ky tô là một số tổ chức tàn bạo (tổ chức tàn bạo số một?)và học thuyết của nó là “siêu hình học của tên đao phủ.”

Những kẻ khốn cùng bị tên thầy tu lôi cuốn đang ở trong tình trạng thiếu đối kháng sinh lý, những kẻ bị mệt mỏi, suy yếu. Giữa họ có những kẻ ho lao thể xác hay tâm hồn, những tên đần độn, theo nghĩa y lý của danh từ, những tên ngu dốt, loạn thần kinh, cặn bã của hội sống. Chính Jésus, cũng như Thánh Francois d'Assise sau này, là “kẻ dâm ô lý tưởng”, là một “vị thánh của tình dục biến dạng” Đáng tiếc là không có một Dostoievski nào sống trong cảnh suy đồi đó để tả cho chúng ta thấy cái hội sống này, để làm nổi bật “vẻ đẹp thấm thía của một hỗn hợp cao cả, bệnh hoạn và ấu trĩ!”. (

Chính thầy tu cũng là kẻ bệnh canh giữ người bệnh. Hắn vừa đủ bệnh hoạn để hiểu sâu sắc người bệnh, nhưng đồng thời cũng khá mạnh để tác động lên họ. “Thống trị trên kẻ đau khổ” đó là vai trò, là nghệ thuật đặc biệt, là bá chiếm, là hạnh phúc của hắn. Hắn là người bảo trợ, là nhà giáo dục, phòng thủ, và thống trị người bệnh. Hắn bảo vệ người bệnh chống lại những kẻ lành mạnh đồng thời chống lại cái thèm muốn do người mạnh gây ra. Hắn là kẻ thù tự nhiên, là kẻ miệt thị mọi thứ sức khỏe, mọi thứ hùng tráng. Chống lại kẻ mạnh, hắn chủ trương một cuộc chiến tranh nham hiểm, quy tụ ở hắn “cái hung dữ của con gấu trắng, cái kiên nhẫn lạnh lùng của con hổ, và nhất là cái xảo trá của con cáo.”

Trước khi chữa trị người bệnh, hắn làm cho vết thương của họ trầm trọng thêm, hắn tiêm thuốc độc vào vết thương đó. Hắn phát hiện cho họ thấy tội ác và tội ác là nguyên nhân mối đau đớn của họ. Chính ý tưởng tội ác này gói ghém mọi chủ đề của Ky tô, trừng phát, (trừng phạt?)vĩnh cửu, bi quan và chuộc tội.

“Người thày tu thống trị bằng cách sáng tạo tội ác”, dấu hiệu ô nhục của loài người. Bây giờ — trên hành tinh khổ hạnh là trái đất chúng ta – là lúc lâm chung của những trái tim tử đạo, cái thèm muốn hạnh phúc không ai biết được và nỗi khao khát giải thoát, “cứu rỗi”.

Sáng tạo hay tăng phần nỗi đau khổ, người thầy tu quy tụ quanh mình những kẻ bệnh hoạn, Giáo hội chính là hội đoàn các kẻ bệnh hoạn và ngu dốt.

Bây giờ người thầy tu mới xoa dịu nỗi đau khổ mà hắn gây ra, hay khêu lên. Hắn dùng một loại thuốc phiện rất khéo léo, một thứ thôi miên. Hắn dùng một phương pháp giảm đến tối thiểu đời sống sinh lý và đời sống tinh thần, tuổi trẻ, sự tiết dục, bần hàn, ép xác, sự “đần độn”, chữ hiếu theo nghĩa của Pascal: từng ấy thứ, với người bệnh, có hiệu quả như một thứ thuốc mê.

Lý tưởng khổ hạnh, ở những kẻ kiệt lực này, là một phương tiện để bảo tồn đời sống. Rồi tiếp theo, người thầy tu dạy cho thực hành một hành động mang đầy tính chất máy móc, hành động biến con người thành bộ máy tự động, và khiến họ chỉ còn biết đến những nỗi đau đớn của mình không thôi… Sau cùng, để chống lại sự khiếp nhược, y khuyến lệ những niềm vui nho nhỏ có thể chấp nhận được, niềm vui đến từ tình yêu người đồng loại: nghĩa cử, quà tặng, sự cứu giúp, việc cổ võ, niềm an ủi, đức từ bi. Cái bản năng sâu sắc nhất trong các bản năng là ý chí hùng cường, được tìm thấy, với một dung lượng nhỏ nhất, trong “niềm vui sướng tiêu phí vui sướng”. Niềm vui tạo nghĩa cử cho nhau là liều thuốc cơ bản để chống lại sự khiếp nhược, yếu hèn. Những kẻ yếu đuối thì thích kết hợp, cũng như người hùng tráng lại khoái chia lìa.

“Người thầy tu khổ hạnh, tên phù thủy già nua trong trận chiến đấu chống lại đau khổ kia ơi! Khi làm hư hỏng con người bằng cách làm yếu hèn họ đi, hắn tuyên bố là nhờ mình mà con người trở nên tốt đẹp nhất. Đó quả là một đồi trụy thực sự. Đạo Ky tô là nguyên nhân của suy đồi, của hủy hoại ; nó chuẩn bị cho chủ nghĩa hư vô về sau.

Việc sáng tác tội ác của Ky tô là “tội lỗi lớn nhất chống lại loài người”. Đạo Ky tô, cho đến nay, là một vô phước lớn nhất cho nhân loại”.

 

 

“Người nào ca ngợi kẻ đó là Thượng đế của tình thương, người đó chưa có nổi ý niệm cao thượng về tình thương. Thượng đế kia có muốn mình là người phán đoán chăng? Nhưng ai yêu thương, là yêu thương ở bên kia hình phạt và phần thưởng.

Khi gặp các người thày tu, Zarathoustra giảng giải vì sao mình không chấp nhận được lòng tin của họ:

Tuy nhiên Zarathoustra chê trách những thù địch này:

 

“Xiềng lại bằng các giá trị nguỵ tạo và lời lẽ ảo tưởng! – Ôi, phải có một người cứu vớt họ khỏi Đấng Cứu Rỗi!”

Vả lại, có gì ngăn cản người chống Ky tô kia, trong tác phẩm Chống Ky tô của ông, trình bày với chúng ta một Jésus hoàn toàn khác với Jésus của Giáo Hội, một Jésus với tinh thần tự do, khinh bỉ mọi Giáo điều, mọi khuôn ước, và mang đến cho con người thông điệp vui tươi nọ, không hề có tội ác và hạnh phúc đời đời là ở ngay trần gian này ; vì “không phải là một niềm tin mới, nhưng là một cuộc sống mới “.

Như vậy, Nietzsche viết, ở trong vài trang di cảo xuất bản trong sưu tập nhan đề: Ý Chí Hùng Tráng, thuyết Cơ Đốc ngày nay chính là thuyết đại nghịch với đạo Ky tô nguyên thủy. Điều bây giờ người ta gọi là “Chân lý Ky tô“ thực ra hoàn toàn là điều dối trá. Vì đạo Ky tô không liên hệ gì đến bất cứ giáo điều trơ tráo nào khoác lên tên của nó. Ngày nay còn có thể có một đời sống con chiên theo Ky tô thoát khỏi các giáo điều phi lý kia chăng?

Đến đây người ta đã hiểu vì sao hiện nay ở Đức đã có vài Mục sư Tin lành tự xưng là những người theo Nietzsche…

°

Ngày nay, mặc cho những biểu hiện bên ngoài, phong trào dân chủ nối chân theo phong trào Cơ Đốc. Cuộc nổi dậy của bọn nô lệ tiếp tục dưới một hình thức mới. Chính tinh thần Ky Tô bình đẳng đã và sẽ gây ra nhiều cuộc cách mạng đẫm máu và đầy tội lỗi. Trong các lý thuyết dân chủ, người ta tìm thấy cả những chủ thuyết chính yếu của tôn giáo KY TÔ: thù ghét cường quyền, bình đẳng, khát vọng đời sống bình thường, tránh đau khổ. Chế độ dân chủ thiết yếu là sự thống trị của các thứ tầm thường, là chế độ tầm thường.

 

“Khi thế gian ngợp chìm trong gióng tố của trận trả thù do chính mình gây ra, đó chính là công lý.

Chúng ta muốn đập bời bời bằng trận trả thù của mình lên trên những kẻ nào không cùng khuôn thước với ta, và phủ lên đầu chúng mọi thứ giông bão kinh hồn.

“Ý chí bình đẳng, đó là thứ chúng ta gọi là đức hạnh!”

Về luận cứ bình đẳng trước Thượng đế, Zarathoustra nói:

Và Zarathoustra trả lời với những con nhện bà dân chủ:

“Tôi không muốn lẫn với những kẻ rao giảng bình đẳng. Bởi vì công lý đã nói với tôi như vầy: loài người không bình đẵng với nhau.

 

 

Phong trào dân chủ, kế tục đạo Cơ Đốc, và cũng như đạo Cơ Đốc, nó là hình thức của suy đồi: không những suy đồi chính trị mà còn suy đồi cả luân lý. Ngày nay, tất cả đều đã Do thái hóa, Ky tô hoá, tất cả đều đã dân chủ hóa, vô lại hóa…

Người ta đã nói nhiều về nữ quyền, phong trào ngày nay tuyên bố sự bình đẳng giữa hai phái.

Việc đòi hỏi này còn là hậu quả của tinh thần dân chủ và các khuynh hướng bình đẳng. Đó là một tiến bộ đáng buồn của Châu Âu trên đường đi vào bế tắc. Việc giải phóng phụ nữ đưa đến suy đồi hoàn toàn, vì một phong trào như thế ngầm chứa sự dại khờ làm xấu hổ người đàn bà thánh thiện và khôn ngoan. Người phụ nữ, khi đoạt được những quyền lợi mới, chỉ thu được duy nhất một điều là sự độc lập kinh tế, hợp pháp của một anh tá sự. Và địa vị họ thụt lùi, họ mất hẳn cái lợi chính đáng vì đã lay chuyển niềm tin của người đàn ông nơi lý tưởng huyền ảo còn che giấu ở người khác phái lòng tin của họ vào người nữ muôn thưở.

Nhưng nguy hiểm nhất là tuyên bố bình đẳng giữa hai phái trong tình yêu. Mỗi người trong hai phái đều có những định kiến và tình cảm khác biệt nhau. Người đàn bà hiểu tình yêu là một dâng hiến hoàn toàn cả thể xác lẫn tâm hồn mà không nghĩ đến bất cứ hạn chế nào. Họ muốn được chấp nhận được ôm ghì như một vật sở hữu. Họ trao mình cho một kẻ không cho lại gì hết. Tình yêu ở người đàn bà là một niềm tin thực sự, bởi họ không có niềm tin nào khác. Người đàn ông đòi hỏi ở người đàn bà một tình yêu như vậy, nhưng chính anh ta thì không cho hay dâng hiến gì cả. Ngược lại, anh ta chỉ muốn làm phong phú thêm bản ngã của mình bằng sức phụ giúp, bằng hạnh phúc và lòng tin. Một người đàn ông yêu như đàn bà sẽ trở thành nô lệ ; một người đàn bà yêu như đàn bà sẽ là người đàn bà hoàn toàn nhất. Như vậy người đàn bà thì tự khắc phục, đàn ông thì đón nhận. Người ta sẽ phán đoán một đối nghịch như thế cứng rắn, kinh sợ, khó hiểu, vô luân. Đó chính là tình yêu hoàn toàn, vì đó là theo thiên nhiên, và thiên nhiên thì không có một chút luân lý nào cả. Từ đó tình chung thủy nằm trong tình yêu của người đàn bà, nó là hậu quả cần thiết của tình yêu. Nhưng nó không dự phần vào tình yêu của người đàn ông.

 

“Ở người đàn bà, tất cả đều là một bí ngữ. Nhưng có một chữ để chỉ bí ngữ kia. Chữ đó là: sinh đẻ.

 

“Đàn ông phải nuôi lớn để dành cho chiến tranh, đàn bà là lúc nghỉ ngơi của người chiến sĩ. Mọi thứ còn lại đều là điên rồ “.

Xa hơn nữa, Zarathoustra mãnh liệt bày tỏ một chủ đề chỉ định trong ghi chú của cuốn Hiểu Biết Hài Hòa là: “Đặc tính của người đàn ông là ý chí, của. người đàn bà là chịu khuất phục”.

 

“Khi một người đàn bà đã phó thác, vâng phục cho tình yêu trọn vẹn của mình, nàng nghĩ: nơi đây bây giờ là một trần gian hoàn toàn rồi.”

“Ngươi đi đến với đàn bà ư? Nhớ đừng quên mang treo cây roi”.

Đàn bà cần sự hiện diện của người đàn ông. Sức mạnh của đường gân thớ thịt ở một thiếu nữ sẽ tăng trưởng khi một người đàn ông đến gần nàng. Nàng còn triển khai hơn nữa bằng một tiếp xúc sâu kín như khiêu vũ hay những “cách cảm xúc khác”. Người đàn bà tự nhủ với mình: “Nỗi buồn nặng nề nhất bay biến ngay khi người đàn ông bắt đầu đến bước chân ta “. Một người đàn bà bản chất cao thượng không chấp nhận câu thơ của Goethe về người nữ muôn thưở, nàng biết rằng chính người nam muôn thưở đã lôi cuốn trên cùng hết. Khi nàng hy sinh cho người đàn ông điều nàng gọi là danh dự của mình, trên thực tế chính là thèm khái riêng tư đã xui nàng làm cử chỉ đó: người đàn ông phải biết điều đó dù hắn khoan khoái và biết ơn vì hành động kia. Đôi khi người đàn bà có tình cảm cao quý và tinh thần chất phác chỉ biết bày tỏ tặng vật của chính mình bằng cách dâng hiến cái quý giá nhất họ có, lòng trinh bạch, đức hạnh. Người đàn ông nhận quà tặng nhưng không tin mình dấn thân vào sâu xa như người cho đã nghĩ: từ đó là câu chuyện buồn…

Bao nhiêu là kiêu căng ở người đàn bà! việc trang điểm mang đến cho một thứ say sưa. Người đàn bà tin vào vóc dáng mình cũng như họ tin vào Thượng đế.

” Nếu anh là một tên nô lệ, anh không thể là một người bạn. Nếu anh là một bạo chúa, anh không thể có bạn bè. “Tên nô lệ và lãnh chúa vẫn ngàn năm ẩn nấp trong người đàn bà, thành thử người đàn bà không thể có tình bạn bởi nàng chỉ biết có tình yêu.

Đàn bà chưa thể có tình bạn. Những con mèo xiêm, đó là tất cả ở người đàn bà. Những con mèo xiêm. Những con chim. Hay những con bò cái”.

Sau hết xin trích ra đây vài lưu ý khác về tình yêu và hôn nhân: “Tình yêu dung thứ cho đối tượng của mình ngay chính cả thèm muốn “. Tình yêu, “điều mà người ta gọi là tình yêu, trong tất cả các ngôn ngữ và trong tất cả im lặng của trần gian”, chỉ thị sức mạnh vũ bão là biến dạng của say sưa. Người ta tự biến hình và biến hình kẻ mình yêu: “Người ta bị lừa một cách thô lậu, và bị lừa một cách khôn khéo khi người ta khôn khéo”. Và không chỉ có một tình cảm về sức vũ bão, một sức mạnh vũ bão cũng thực sự gia tăng. Kẻ yêu đương trở thành hoang phí, phiêu lưu, cả tin, “một con lừa của lòng ngây thơ và quảng đại”. Đôi cánh mọc từ “kẻ ngu ngốc hạnh phúc kia”. Với cuộc biến dạng nọ nghệ thuật xuất hiện giữa lòng bản năng tình yêu – “Những cuộc hôn nhân yêu đương đều có cha là lầm lẫn và mẹ là cần thiết, nhu cầu”. Zarathoustra bảo: “Tình yêu, đó là nhiều cơn điên ngắn. Và hôn nhân của bạn chấm dứt những cơn điên ngắn kia bằng sự ngu ngốc lâu dài”.

Vì lầm lẫn những khác biệt cơ bản giữa hai phái và đặc tính thực sự của tình yêu, phong trào nữ quyền hiện đại là một yếu tố của suy đồi và thoái hóa, cũng như, bằng nhiều nguyên cớ khác, tất cả các lý thuyết bình đẳng vậy.

°

Tinh thần tự do phải là tinh thần phê phán tất cả các lý tưởng cựu truyền:“ Niềm tin vào chân lý bắt đầu với hoài nghi vào chủ đề của lọai chân lý mà từ trước đến nay người ta đã tin tưởng “ — Nietzsche thảo luận về tất cả mọi quả quyết đến ngày nay vẫn còn cho là thực, tức là các niềm tin siêu hình, đạo đức, tôn giáo, chính trị, xã hội, thẩm mỹ. Tới đây, chỉ duy một ý niệm tỏ ra thoát khỏi cuộc thảo luận, đó là ý niệm chân lý. Ý niệm kia không tới phiên nó bị thử thách ư? Tình yêu chân lý ngày nay quay sang chống lại chính lý tưởng chân lý. Có lẽ cái đặc ái chân lý chỉ là một trong những định kiến luân lý không chống lại một phê bình đứng đắn và nghiêm chỉnh… Chưa có người nào đủ chân thực để đặt vấn đề luân lý.

Trong cuốn Hiểu Biết Hài Hòa, Nietzsche đặt niềm vui trên sự hiểu biết, cái vui sống ở trên cái vui hiểu biết… Hẳn nhiên ông tiếp tục lên án gắt gao sự thiếu thốn ý thức trí tuệ, tiếp tục xem cuộc đời như phương tiện của hiểu biết và chính hiểu biết cũng là thế giới đầy gian khổ và vinh quang, nơi khiêu vũ, cờ bạc và chủ nghĩa anh hùng tìm thấy chỗ đứng của mình. Nhưng phần khác, ông cũng đưa ra cảnh một kẻ du hành vừa đi vừa khóc: “Khuynh hướng tiến đến sự thật, đến thực tiễn, đến đích xác, tôi hận nó biết bao. Tại sao sức giao động, u tối và đam mê đó cứ đeo đuổi tôi. Tôi muốn an nghỉ, nhưng nào nó có cho.” Nhưng rồi yên tâm rằng khoa học không phải là một tuyệt đối, rằng nó dựa trên lòng tin, kẻ du hành kia tưởng đến “một tự do của ý chí, nơi tinh thần đã thoát bỏ mọi tín ngưỡng, mọi ham thích đích xác, nó hành động như đang đứng trên mấy sợi dây mong manh của mọi cái khả hữu và khiêu vũ bên bờ vực thẳm. Một tinh thần như vậy là một tinh thần tự do hoàn hảo nhất”.

Trong lời tựa, viết vào năm sau lần xuất bản đầu tiên, Nietzsche viết: “Chúng ta không còn tìm thấy vui thích ở sự vật mang khẩu vị xấu nọ, ý chí của chân lý, chân lý với mọi giá”. Ông bày tỏ cùng ý tưởng đó bằng một bài thơ ngắn, viết “ trong miền Nam “.

“ Nơi miền Bắc, — tôi ngập ngừng thú nhận điều đó –

Tôi đã yêu nqưởi đàn bà than khóc:

Chân lý chính gọi tên là người đàn bà kia “

Khi minh chứng khoa học đặt nền tảng trên tín ngưỡng và lòng tin nơi chân lý là một tín ngưởng luân lý, bắt nguồn từ Platon và đạo Ky tô, Nietzsche sửa soạn công việc phê phán ý niệm đó và đó cũng là một ý niệm cựu truyền. Cái gì sẽ được thay thế nó. Trong một đoạn mang tựa đề chủ nghĩa ích kỷ ông trình bày điều ông gọi là quy luật viễn cận, có giá trị trong lĩnh vực tình cảm, lĩnh vực tùy thuộc hoàn toàn vào bản ngã: “ Theo quy luật này, sự vật ở gần nhất hiện ra to lớn và nặng nề, nhưng càng xa kích thước và trọng lượng nó càng giảm”. Ông áp dụng ngay quy luật này vào đời sống trí tuệ vào hóa công thức cái ông gọi là thuyết viễn cận. “Chúng ta hoàn toàn không có một cơ quan nào cho tri thức chân lý, chúng ta biết hay hơn nữa tin rằng biết cái có ích lợi mà chúng ta hiểu trong lĩnh vực lợi ích của đoàn thể con người, của loại giống”.

Chính thuyết viễn cận này được ông trình bày trong đôi trang của cuốn Hiểu Biết Hài Hòa và trong những tác phẩm về sau, đặc biệt là trong những trang di cảo danh tiếng xuất bản với nhan đề Ý Chí Hùng Tráng. “ Chân lý có nghĩa là cái dựng lên mẫu mực con người”. Phương pháp để tìm thấy và để thiết lập chân lý không phải đã được khám phá vì các lý lẽ của trật tự trí tuệ, nhưng vì các nguyên do của sức mạnh tiếp theo các nguyên do của ý chí thống trị”.

Chân lý tự minh chứng bằng cái ích lợi thiết thực của nó, bằng tình cảm làm gia tăng sức mạnh hùng tráng của nó.

“Mỗi trung tâm sức mạnh có viễn tượng của nó cho mọi cái còn lại, nghĩa là hành động đặc thù, sức đối kháng của nó. Thế giới biểu hiện ẩn trong các hành động đặc biệt về thế giới xuất phát từ một trung tâm trên. Không thể có cách hành động nào khác, điều người ta gọi là thế giới chỉ là chữ để chỉ định trò chơi của toàn thể các hành động kia. Thực tại thu hết sức nhỏ trong hành động kia và phản ứng đặc biệt của mỗi cá nhân đối với toàn thể.”

Chủ thể, tức hữu thể loại biệt gây nên các hành động và các phản ứng. Mọi hữu thể, ngay cả mọi cơ thể, ngóng đến việc trở thành chủ ông trong mọi phạm vi bành trướng khắp nơi sức mạnh, ý chí hùng tráng của mình và chống lại mọi thứ kháng cự sức bành trướng của nó. Nhưng rồi nó gặp các hữu thể khác, các cơ thể khác cũng có cùng một ước vọng như vậy. Thế giới là kết quả của các hành động và phản ứng kia.

Trong các lực lượng làm cho cái này xung khắc cái kia ở đời sống cụ thể, thế giới của ý thức chiếm một chỗ rất nhỏ.

Ngay ở con người ý thức cũng không phải là tất cả vì phần lớn hoạt động trí tuệ của chúng ta vận dụng một cách vô thức.

Đến khi xuất hiện, ý thức chỉ là “ một phương tiện sau hết của phát triển và tăng trưởng sức sống”. Nó chỉ là phương tiện của thông đạt, kết quả của những liên hệ giữa cơ thể và thế giới ngoài. “Tri thức hành động như khi cụ của sức mạnh hùng tráng”.

Cảm quan dùng để hướng dẫn ta trong thế giới đồng thời bảo vệ và phát triển ta.

Chính con người sáng tạo nên các vật thể. Chân lý ở đây là “ lý chí trở nên chủ ông tính trùng phức của cảm giác”. Chất liệu của cảm giác đã được sửa soạn bởi trí năng ; các hỗn tạp của các ấn tượng cảm giác được hóa lý luận. Vì “luận lý là khuynh hướng hiểu thế giới đích thực theo lược đồ của hữu thể được chúng ta ấn định, hay nói rõ hơn: do ở chúng ta hóa công thức và ấn định thế giới đích thực”. Sự ấn định này không có mục đích là tri thức thuần tuý, nó dành để thỏa mãn các yêu cầu thực hành. Lòng tin vào luận lý chứng minh không pháỉ chân lý của mình, nhưng cái lợi ích của mình cho đời sống.

Để hành động, để hanh thông ta phải tìm cho mình cái cố định, cái bất dịch trong đời sống. Và các vật thể chỉ để sử dụng trong điều kiện đó. Vì lý lẽ này của trật tự thực hành, con người xác nhận cái hình thể thay vì cái biến dịch. Nó khắc vào biến dịch đặc tính của hữu thể. “ Ý chí của chân lý chỉ là sự thèm khát một thế giới nơi đó tất cả là kiên cố trường cửu”. “Hữu thể” làm nên thành phần thị giác của chúng ta. Yêu cầu của chúng ta xác định đầy đủ hoạt động của cảm quan ta mà thế giới biểu hiện xuất hiện với ta như một thực tại.

Các hình thái và quy luật của tư tưởng là các phương tiện thích nghi được đặt để bởi các điều kiện bên ngoài.

Không gian Euclide là một chân lý vì nó là một điều kiện hiện hữu của chúng ta.

Luân lý là một phương tiện phòng vệ và hoạt động, một sưu tập các công thức thực hành. Các nguyên lý luận lý như nguyên lý đồng nhất (A là A ; một vật đồng nhất với chính mình), như nguyên lý không mâu thuẫn (A không phải là không A ; người ta không thể vừa khẳng định vừa phủ nhận một vật với một vật khác) đặt để với chúng ta như các phương tiện sáng tạo về cách sử dụng các vật cụ thể của chúng ta. Nơi đây luôn luôn phải hóa lược đồ, đặt để điều hòa các sự kiện hỗn tạp để thỏa mãn yêu cầu thực hành của ta. Cưỡng ép chủ quan cấm chỉ tự mâu thuẫn tự nền tảng là một cưỡng ép vật sống; nguyên lý này bày tỏ sự bất lực, không bày tỏ được chân lý.

Nguyên lý nhân quả (tất cả đều có nguyên nhân) cũng có nguồn gốc ở tính cần thiết của hành động.

Tư tưởng nguyên nhân phát xuất từ tình tự của sức mạnh hùng tráng, tư tưởng hậu quả đến từ định kiến cho rằng sức mạnh hùng tráng được đạt trong tình thế chuyển động. Chúng ta không thể tưởng tượng một thay đổi nào mà không có ý chí hùng cường. Chúng ta sẽ không thể tìm thấy nguồn gốc của trạng thái biến hình nếu không có một lấn lướt của sức mạnh này lên sức mạnh khác.

Khoa học không mang đến cho ta một giải thích vũ trụ ; nó chỉ là khí cụ để diễn dịch cho lợi ích của chúng ta để dung hợp thế gian. Hình ảnh thế giới mà các nhà vật lý và hóa học hình thành tự yếu tính không khác với hình ảnh chủ quan mà mọi người đã có. Thế giới được xây dựng với giác quan rộng lớn nhất, nhưng cũng với giác quan của chính chúng ta.

Thuyết vũ trụ cơ động lý hoá là sự sao chép thực tại trong ngôn ngữ con người. Mọi giả thiết của thuyết đó như nguyên tử, vật chất, sức ép, va chạm, trọng lực, không phải là sự kiện tự có, nhưng là các diễn dịch nhờ sự giúp đỡ của các giả tưởng tâm thức.

Các mệnh đề mà ta gọi tên là quy luật khoa học chứng tỏ với chúng ta, trong lĩnh vực lưu tâm riêng tư của mình, các tương quan sức mạnh tự lặp đi lặp lại ra sao…

Tư tưởng chân lý không đối kháng với phân tích này. Chân lý, trên quan điểm cảm quan, là những gì dẫn đến sức đối kháng lớn nhất, trên quan điểm tình cảm, là những gì phát xuất cảm tính mạnh nhất, và trên quan điểm trí tuệ, là những gì đem đến cho tư tưởng tình tự lớn nhất về sức mạnh hùng cường…

Thuyết viễn cận của Nietzsche là một trong những hình thái của học thuyết nổi danh ngày nay, nhưng nấp dưới tên khác là chủ nghĩa thực dụng. Gœrge Elliot, người đã sống trong khung cảnh của các nhà triết học (Lewes, Spencer) lần đầu tiên đã dùng chữ Mỹ chủ nghĩa thực dụng trong cuốn tiểu thuyết Middlemarch của bà.

Nhà triết học Peirce, tác giả bài báo trinh bày triết học hành động, những bài xuất hiện trên tờ Khoa học phổ thông hàng tháng (Popuplar Science Monthly) năm 1878 và được dịch ra đăng trên Tạp chí Triết học (Revue Philosophique) vào năm 1878 và 1879, đã dùng chữ này trong cuộc nói chuyện và trong bản in năm 1902. Nhà triết học vĩ đại Mỹ William James đã mượn chữ này của Peirce và phát triển nó thành nổi tiếng.

Chính vào năm 1881 Nietzsche viết và năm 1882 ông xuất bản cuốn Hiểu Biết Hài Hòa là cuốn ông trình bày lần đầu tiên thuyết viễn cận của mình. Nhưng ngay từ năm 1873 ông đã trình bày cho riêng mình với chủ đề này bằng những ghi chú và chưa xuất bản về Chân lý và Sai lầm trong ý nghĩa ngoài Luân lý. Vì thế một nhà viết sử chính yếu Pháp về chủ nghĩa thực dụng, René Berthelot, tác giả cuốn Một chủ nghĩa lãng mạn thực dụng, nghiên cứu về hoạt động thực dụng, (Alcan xuất bản, 1911) đã gọi Nietzsche là “ kẻ tiền phong và có lẽ là nhà vô địch cừ khôi nhất của nghịch lý thực dụng “…

Dù với thuyết viễn cận của mình, Nietzsche, trong tất cả những cuốn từ sau cuốn Hiểu Biết Hài Hòa cho đến những bản viết cuối cùng, không ngừng gọi nó, và các thuyết khác của mình, là chứng tích của tinh thần tự do. Ông thường nhắc đến “ những đòi hỏi của lương tri trí tuệ.” Chính dưới danh nghĩa “ chân lý”, trong cuốn Der Antichrist, Nietzsche kết án đạo Ky tô của bọn tăng lữ. Ngay ở những trang di cảo Ý Chí Hùng Tráng, ông vẫn còn dùng đôi khi với vẻ tự châm biếm – danh từ to lớn “chân lý” kia. Nói về sức mạnh mà các nhà vô luân lý sử dụng, ông viết: “Một lôi cuốn vĩ đại sát cánh với chúng ta, có thể là lôi cuốn to lớn nhất: lôi cuốn về chân lý”…

Người ta có thể rút ra một ý tưởng là mọi phê bình của Nietzsche đều là tác phẩm của tinh thần tự do được kích động bằng lòng nhiệt thành say sưa và tình yêu chân lý nồng nàn.

Bình luận
Ads Footer