Trong một trang sách ở cuốn Bình Minh, Nietzsche đã trách vài triết gia trước mình (Kant và Schopenhauer) đã không tạo nên một “tiểu sử vô ý của tâm hồn” nào rút từ tư tưởng của họ. Lời phê phán này không nhằm vào Nietzsche được, vì giữa cuộc đời và tác phẩm của ông có một tương quan vô cùng chặt chẽ. Khi đề cập đến tác phẩm Nietzsche, nên coi nó như một thứ “nhật ký nội tâm” hay là lời thú nhận thành khẩn và thiết tha của “một tâm hồn mang tư chất hiếm có” như lời của một trong những nhà phê bình nổi tiếng nhất của Pháp về Nietzsche, Henri Lichtenberger, giáo sư đại học ở Sorbonne.
Cho nên đối với Nietzsche, hơn bất cứ nhà tư tưởng nào, điều cần thiết là phải biết rõ cuộc đời ông, trước khi đi vào triết lý.
Cuộc đời đó thật lại vô cùng lôi cuốn. Cũng trong một trang khác của cuốn Bình Minh, Nietzsche hỏi những người tự nhận là người hiểu biết: “Anh đã sống với tận cùng tâm hồn của anh chưa, với những nỗi xao xuyến, dao động, với buồn thảm mênh mông dài đăng đẳng, với niềm vui phút chốc bùng cháy lên không?” Nếu có ai đặt ra với Nietzsche câu hỏi này, hẳn nhiên Nietzsche sẽ trả lời quyết liệt: có.
Bệnh họan, khổ đau tình cảm, niềm vui bất chợt; những lúc lao mình với tình yêu mà không được đền bù: những tình bạn đam mê, đôi khi đưa đến đoạn tuyệt; những trầm tư cô độc, những cuộc du hành, đổi chỗ ở càng lúc càng thường xuyên. Những ngày diễm ảo ở các thành phố đẹp đẽ, trong nơi trú ngụ huy hoàng, những hy vọng rồi tuyệt vọng, những cuộc khảo sát thường xuyên của ý thức, những hiếu kỳ, những mơ mộng, ái ngại, chán nản, ngờ vực: bao nhiêu là biến chuyển nội tâm, rất nhiều các phiêu lưu tình ý!
Cuộc đời đó, trong cách thế của nó, là tuyệt phẩm của nghệ thuật. Nietzsche đã thực hiện đúng hình ảnh lý tưởng ông đã khẳng định trong cuốn Hiểu Biết Hài Hòa: “Chúng ta muốn là thi sĩ của cuộc đời chúng ta.”
Friedrich Wilhelm Nietzsche sinh ngày 15 tháng 10 năm 1844 ở Roecken, tỉnh Thuringe. Thuringe là nơi có dân số nửa gốc Đức nửa gốc xờ-la-vờ vẫn thường là trung tâm của tư tưởng tự do, tinh thần phê phán, đối nghịch với các lý tưởng cựu truyền. Chính Thuringe là nơi sinh của Luther, nơi phát xuất phong trào cải cách.
Tổ tiên của Nietzsche phần nhiều đều là những nhà thần học tin lành, đó chính là môi trường kết hợp một nền văn hóa rộng rãi với một thứ luân lý khắt khe và một lòng tôn trọng các đức tin công giáo. Cha của ông Karl Ludwig Nietzsche là mục sư. Ông quản nhậm địa phận Roecken, gần sát mặt trận Lutzen, và kết hôn với một trong những người con gái của vị mục sư đồng nghiệp sống ở giáo khu bên cạnh, Franciska Œhler.
Trong một trang của cuốn Sự Vật Nhân Bản, Friedrich Nietzsche viết: “Những xung khắc không giải quyết giữa đức tính và lòng tin ở cha mẹ đã tồn tại nơi đứa con và tạo ra lịch sử cả cuộc đau khổ nội tâm của nó.”
Trang sách này được ông Charles Andler, giáo sư trường quốc học Pháp chú giải rất hay trong cuốn sách nổi tiếng của ông về Nietzsche, cuốn Nietzsche, cuộc đời và tư tưởng, (ở đây chúng tôi dựa nhiều vào tác phẩm quan trọng đó, tưởng cũng không thừa khi khuyên người đọc nên tìm đọc tác phẩm này, nếu muốn biết rõ Nietzsche).
Charles Andler viết: “Giòng họ Œhler có rất nhiều lòng tin Ky tô và cả tính phỉ báng thánh thần. Còn giòng họ Nietzsche thì toàn là các nhà tu khổ hạnh nhưng cũng là phần tử tinh hoa của tư tưởng tự do. Người nào cũng hách dịch và bằng nhiều cách thường tỏ ra muốn thống trị kẻ khác. Nỗi xung khắc kéo dài nọ tạo ra đau khổ nội tâm ở Nietzsche. Truyền thống gia đình đã dạy cho Nietzsche biết tổ tiên của mình là những quý tộc Ba Lan, những bá tước dòng họ Nietzki, bị ngược đãi phải trốn khỏi quê hương và sau cùng chấp nhận phong trào cải cách. Một ngày nọ cậu bé Nietzsche nói với người em: “Một bá tước dòng Nietzki không bao giờ được nói dối.”
Nietzsche được năm tuổi thì cha mất, và mẹ phải dọn về ở nơi thành phố Naumburg. Cậu bé trịnh trọng, mộ đạo, thông minh, thường thao thức đó, khi được 6 tuổi người ta đã đặt là ông mục sư con. Ông mục sư con tự nhủ thầm: “Năm 12 tuổi, tôi đã thấy thượng đế trong vẻ rực rỡ của ngài.” Ngay từ nhỏ và suốt đời niên thiếu, Nietzsche đã làm thơ và sáng tác nhạc, những vũ khúc, những giai khúc ca ngợi tổ tiên Ba Lan mình.
Tháng 10 năm 1858, Nietzsche vào trường trung học Schulpforta. Ở đây ông học viết tiếng Đức cho hay hơn, học rất chăm tiếng Hy lạp, La tinh và rất say mê lịch sử.
Năm 1864, ông rời Schulpforta và vào Đại học Bonn. Ông chỉ học ở đây một năm rồi qua Đại học Leipzig, theo người thầy ông thích nhất, giáo sư ngữ học Ritschl.
Ban đầu ông vẫn tìm cách giữ nguyên lòng tin như ở thời thơ ấu, nhưng vô ích. Những nỗi hòai nghi dần dần nảy nở trong lòng ông. Ông không dứt bỏ đột ngột đạo Ky tô như thể vài người công giáo khác đột nhiên không tìm thấy trong tôn giáo của mình chân lý tuyệt đối mà họ đã tin theo. Bởi là người tin lành, Nietzsche tự xét mình có quyền sáng tạo một niềm tin riêng tư, dựa trên căn bản tự do phê phán. Nhưng khi tinh thần phê phán càng mạnh mẽ, niềm tin càng yếu dần rồi mất hẳn.
Một lần ông viết thư về cho em gái: “Ở đây có hai con đường cho chúng ta: nếu em muốn hạnh phúc và muốn tâm hồn an nghỉ thì hãy tin, còn nếu em muốn suốt đời là kẻ theo đuổi chân lý thì hãy tìm kiếm…”
Ông từ bỏ thần học là môn ông đã chọn trước kia. Ông quyết định theo đuổi phụng sự ngữ học dưới sự chỉ dẫn của giáo sư Ritschl, người tin rằng ngữ học không giản lược vào một khoa học lịch sử về các hình thái văn chương, nhưng là một lĩnh vực nghiên cứu rộng lớn của tư tưởng của định chế.
Nietzsche hy vọng được thỏa mãn lòng đam mê học hỏi của mình trên khắp các lĩnh vực mà không rơi vào lối học tài tử, ông làm đủ điều cần thiết cho một môn học chuyên biệt đứng đắn của mình.
Từ năm 1865 đến 1868, ông học được vài năm ở đại học Leipzig, bị ngắt quãng vì nghĩa vụ quân sự nhưng cũng gián đoạn vì tai nạn té ngựa phải mất một thời gian điều trị.
Dưới sự hướng dẫn của giáo sư Ritschl ông đã làm được nhiều công tác tốt đẹp về ngữ học, nhất là về các tác phẩm của Diogène Laoerce, người chuyên viết tiểu sử các nhà triết học Hy Lạp.
Tình cờ một bữa ông lật cuốn sách của Schopenhauer, triết gia lớn theo chủ nghĩa bi quan, và say mê đọc. Cha Andler viết: “Ánh sáng đột nhiên bùng lên không khác chi như khi Malebranche khám phá ra Descartes”.
Nietzsche mua ngay một số sách mang về nhà để ra hai tuần liên tiếp đọc không ngừng, trừ vài giờ ngủ. Bỗng chốc ông rời bỏ ngữ học để sang triết học và đệ trình một luận án- bị từ chối- về vài khía cạnh của học thuyết Schopenhauer. Ông hướng dẫn bạn bè nhất là Erwin Rohde vào triết lý bi quan vĩ đại đó.
Ông mơ, với Rohde và vài người bạn khác sau khi học xong năm cuối, cùng đi Paris và sẽ trình bày “lông bông trên các đại lộ đặc ngữ Đức và triết lý Schopenhauer.” Nhưng rồi ông không thực hiện dự tính đó.
Tháng 11 năm 1868, một biến cố tình cảm xáo trộn đời sống của Nietzsche. Từ lâu ông rất ngưỡng mộ Richard Wagner, và rất thích nghe nhạc Wagner ở các buổi hòa tấu, ông còn chơi nhạc Wagner lúc một mình, lúc ở nhà bạn bè. Khi Wagner đến Leipzig và lại thăm người em gái, vợ của nhà Đông phương học Brockhaus, ông ngạc nhiên khi thấy bà Brockhaus và bạn của bà này, bà Ritschl, đã biết đến một trong những giai khúc của ông trong bài Maitres-Chanteurs; Wagner rất mong muốn được làm quen với kẻ ngưỡng mộ vô danh đã góp phần phát hiện tác phẩm của ông và làm danh tiếng ông lan khắp nơi. Một tối mưa và đầy tuyết, Nietzsche lại nhà ông bà Brockhaus, e thẹn xấu hổ trong chiếc áo mưa đen cũ, nhưng sung sướng ngập lòng vì được gặp bậc thầy đó. Nietzsche bày tỏ lòng tôn sùng của mình. Cả hai cùng nói chuyện, nhất là nói về Schopenhauer. Người nghệ sỹ lớn và kẻ ngưỡng mộ trẻ tuổi kia tỏ ra hòa hợp, đồng ý với nhau rất sâu xa.
Vào dịp này trường đại học của hạt Bâle đang tìm một giáo sư dạy tiếng Hy lạp và La tinh. Ritschl khuyên nên mời Nietzsche, dù bấ giờ Nietzsche mới 24 tuổi, nhưng ông viết: “Đó là một thiên tài.” Chàng trẻ tuổi được phong giáo sư ngữ học cổ điển tại Đại học Bâle.
Ông đến Bâle ngày 19 tháng 4 năm 1869. Ông giảng dạy rất lương tâm với các sinh viên ở đây. Đồng thời tại đó ông cũng gặp Jacob Burkhardt nhà sử học văn minh, sau là giáo sư sử ký giáo hội Overbeck, ông kết bạn rất lâu với vị này.
Điều ông sung sướng hơn cả là được Wagner mời đến chơi tại nhà ở Tribschen, lân cận Lucerne. Ông đến đó lần đầu vào tháng 5 năm 1869, và sống tại đó những ngày đầy vui vẻ, những ngày đẹp nhất trong đời của ông (theo thư viết về cho em gái.) Với ông, “Wagner là thiên tài vĩ đại nhất và là nhân vật lớn nhất của thời đại chúng ta.” Lần đầu tiên Wagner thấy mình được hiểu, được ngưỡng mộ như chính ông muốn.
Sống với Wagner là Cosima, mà sau này Wagner kết hôn với nàng, người con gái của Liszt, vợ đã ly dị của nhạc trưởng Haus von Bulow. Người thiếu phụ thông minh và say đắm đó gây cho Nietzsche một ngưỡng vọng đam mê, nàng chính là người đàn bà cao quý độc nhất mà ông đã biết. Andler cho biết, nàng còn trẻ nên cảm thấy gần gũi với Nietzsche hơn là Wagner, lúc đó đã gần sáu mươi. Ông Andler viết: “Từ đây khởi đầu một thiên tình sử cao đẹp nhất của thế kỷ 19, thiên tình sử câm nín và đau xót mà mãi đến ngày nay vẫn chưa một ai biết rõ. Sau này Cosima sẽ là Ariane trong giấc mơ của Nietzsche. Chỉ đọc một lần vào năm 1888, khi rơi vào tình trạng điên lọan, ông mới dám viết cho người thiếu phụ đó: “Ariane ta yêu em.”
Từ năm 1869 đến năm 1872 (năm gia đình Wagner ngụ ở Bayreuth) Nietzsche đến Tribschen hai mươi ba lần.
1870… trận tuyên chiến giữa Pháp Đức làm Nietzsche kinh ngạc. Ban đầu ông phẫn uất lên án bọn xâm lược, bọn “thú dữ Pháp”. Vì có quốc tịch Thụy sỹ từ khi là giáo sư ở Bâle, Nietzsche không thể thi hành nghĩa vụ quân sự. Ông tình nguyện xung vào đòan cứu thương. Bằng kinh nghiệm thực tiễn ông được biết, không phải cái tàn khốc của chiến tranh, nhưng cái hậu quả kinh sợ theo sau chiến tranh. Trong khi đưa các thương binh về Đức, ông mắc bệnh bạch hầu và kiết lỵ. Ông bị một trận đau rất nặng, và từ đó, không bao giờ ông tìm lại được sức khoẻ hòan tòan.
Vào ngày 12 tháng 2 năm 1870, ông khám phá ra cuộc chiến tranh, bề ngòai là phòng thủ, được người Đức theo đuổi, trên thực tế, là cuộc “chiến tranh chinh phục.” Ông sợ hãi cái nguy hiểm của giấc mộng bá chủ của đế quốc Phổ chạy theo nền “văn hóa Đức” thực sự. Ông viết trong những ghi chú để lại sau này: “Điều làm tôi ghê tởm sau chiến tranh là cái hào nhóang, cái khinh miệt người Pháp, cái chủ nghĩa quốc gia. Người ta đã mang lại biết bao nhiêu đằng sau Goethe! và bao nhiêu thú nhục dục đáng tởm.”
Chúng ta hãy tạm dừng tiểu sử Nietzsche nơi đây để đi sâu vào việc tìm biệt con người thể chất và tinh thần của ông.
Diện mạo của Nietzsche đập mạnh vào mắt bất cứ người nào khi mới gặp ông: trán rộng bóng ; tóc đen đổ ra sau ; đôi mắt lớn sáng long lanh, khi nhìn đăm đăm, khi xa vắng bất động ; chòm râu mép lớn rũ xuống. Vẻ mặt kiêu ngạo và e dè. Quần áo đôi khi tiều lụy, còn thường thì rất chải chuốt. Những bậc thầy nào đã ảnh hưởng lên tư tưởng của ông? Ông đề cập đến những tâm hồn lớn nhất đã tác động trong suốt cuộc đời của ông: “Khi nói đến Platon, đến Pascal, đến Goethe, tôi nghe như máu họ chảy trong mạch mình.”
Ta có thể nhận thấy những ảnh hưởng trí thức ông đã chịu trong vô số trích dẫn ở tác phẩm và thư từ của Nietzsche. Thư mục của tủ sách ông đã được người em, bà Foerster – Nietzsche xuất bản. Danh mục các sách ông mượn ở thư viện Bâle từ năm 1869 đến 1879 cũng đã được Alberl Lévy ấn hành. Và ông Charless Andler đã dành hẳn một cuốn để nghiên cứu những “kẻ tiền phong” của Nietzsche.
Trong quãng đầu của cuộc đời, phần lớn bậc thầy của ông điều là người Đức.
Ở Goethe. mà ông đọc đi đọc lại không ngừng các tác phẩm thi ca, ông yêu cái táo bạo, cái khuynh hướng vượt quá quốc gia và thế kỷ, cái cảm khái đưa đến một “nền nhân bản toàn diện”. Charles Andler viết: “Chỗ đứng tăng trưởng mà ông dành cho Goethe trong việc đánh giá là một trong những dấu vết của chủ nghĩa bảo thủ thông minh của Nietzsche trong việc lật đổ các giá trị”.
Ở Schiller, người biểu lộ chủ nghĩa anh hùng và việc chấp nhận định mệnh. Ngay từ thời niên thiếu cuốn Kẻ cướp của Schiller đã gợi cho Nietzsche ý thích Siêu nhân. Thơ trữ tình về niềm vui bên cạnh nhạc Beethoven mang lại cho Nietzsche một xúc cảm mãnh liệt.
Ông đọc và suy tư rất sớm triết lý của Fichte. Ông khen ngợi siêu hình học của Fichte nhưng chê bai “tính dối trá và bợ đỡ tình tổ quốc” của ông này. Với Schopenhauer, mà ông (như đã nói) là kẻ ngưỡng mộ nhiệt thành. Ngay cả khi không còn tin vào siêu hình học của Schopenhauer, ông vẫn tiếp tục ca ngợi những đặc tính luân lý của vị này.
Ở Hoelderlin, cũng là con vị mục sư như ông cũng không tín ngưỡng như ông, cũng là nhà thơ và nhà tư tưởng như ông, cũng điên và chết như ông. Nietzsche thích những câu thơ đẹp, những dự tính lớn lao trong các bài thơ mênh mông của Hoelderlin.
Trong những ngưới nước ngoài, ở thời kỳ này, ông thích hơn cả là nhà luân lý Mỹ Emerson. Ông gói cuốn Tiểu luận trong va li mình khi đi xa. Ông đặc biệt mến chuộng vị tông đồ của năng lực đó.
Trong tất cả những người đồng thời, cùng với Richard Wagner, Jacob Burckhardt là ngưới gây ở Nietzsche, ảnh hưởng lớn lao nhất. Người bạn và là đồng nghiệp này lớn hơn ông đến hai mươi tuổi. Cùng với Burckhardt, ông tác luyện một giải thích mới về văn minh Hy lạp và tất cả các nền văn minh.
Trong tác phẩm lớn đầu tiên của mình, cuốn Nguồn gốc bi kịch, Nietzsche đã bày tỏ lối giải thích đó. Ông đã trình bày một phần ý tưởng của mình về bi kịch Hi lạp trong nhiều bài diễn thuyết bắt đầu từ năm 1870 và chấm dứt vào cuối năm 1871, sau ấn hành tại nhà xuất bản Fritzsche, Leipzig, với niên hiệu 1872. Chúng ta sẽ tóm tắt chủ đề chính yếu của cuốn sách này trong một phần sau. Tác phẩm bị các nhà phê bình đón tiếp thiếu thuận lợi, một vài người im lặng, còn những kẻ khác lên tiếng chê bai lối giải thích độc đáo văn minh Hy Lạp đó. Nhưng riêng Wagner và Cosima, hai người viết cho ông những bức thư đầy thiện cảm.
Năm 1872, ở Penteco6te, Nietzscbe sung sướng đặt viên đá đầu tiên xây rạp hát Bayreuth. Ngày 22 tháng 6 năm 1872, ở Munich, ông tham dự buổi trình diễn đầu tiên của vở Tristan và lsolde và ông đã bắt gặp một cảm xúc rất mạnh.
Từ năm 1873 đến 1876 ông soạn thảo và xuất bản gồm chung bốn nghiên cứu dưới nhan đề Quan điểm không hiện thời.
Phần đầu của cuốn Quan điểm không hiện thời ra đời năm 1873, tấn công một địch thủ của Wagner, nhà thần học tự do David Strauss. Đối với Nietzsche, David Strauss là kẻ đại diện tiêu biểu, xứng đáng cho bọn “đạo đức giả học thức”. Phần thứ hai, xuất bản năm 1874, nhắm đến cái lợi ích và hơn nữa những nguy hại của việc nghiên cứu sử học. Phần ba xuất bản năm 1874, có nhan đề Schopenhauer, nhà giáo dục (trong tác phẩm ông viết riêng cho mình, vào cuối đời suy tưởng, cuốn Ecce Homo, tác giả nói rằng nhan đề thực của nó đúng hơn là Nietzsche nhà giáo dục). Phần bốn in năm 1876, xưng tụng Richard Wagner ở Bayreuth. Sau đây khi nghiên cứu về những bước đầu của tư tưởng Nietzsche, ta sẽ tóm tắt các tư tưởng chính của những bản văn trên. Cũng chính vào lúc tác phẩm ca ngợi người nhạc sĩ thiên tài đó xuất hiện, thì những nghi ngờ, những tình ý đối nghịch, mà từ hai năm nay Wagner đã gây ra ở ông, càng lúc càng rõ rệt hơn càng không cưỡng chống nổi. Giữa hai tâm hồn dữ dội nọ, đã có những xung đột tự ái. Và cả xung đột tình cảm, bởi Nietzsche, tự trong thâm tâm mình, đã yêu Cosima Wagner.
Nietzsche thường tự hỏi có phải lòng ngưỡng mộ của mình về con người và nghệ thuật của Wagner là chính đáng, có đúng nhà nghệ sĩ lớn kia không phải là kẻ ích kỷ, vô liêm, chuyên chế, có đúng là âm nhạc của ông ta là thứ âm nhạc huyên náo, suy đồi, những nhân vật khoa trương, có phải âm nhạc của ông ta thiếu đi cái dung dị, cái ý vị. Nietzsche biết rằng Wagner và Cosima khó chịu vì lý thuyết chống Ki tô và chủ nghĩa thực nghiệm của mình. Ông mơ sẽ cải hóa, sẽ đưa họ đến cái nhìn rộng lớn hơn về vũ trụ.
Tháng 8 năm 1874, ông đến Bayreuth thăm cả hai ở nhà họ tại Wahnfried, rồi ông trở về trong buồn nản và bệnh hoạn. Tháng 7 năm 1876, mặc dù đau thần kinh, Nietzsche cũng tham dự buổi diễn tập vở Vòng khuyên của Niebelung, ở hí viện Bayreuth. Nơi đây ông gặp một Wagner vinh quang đầy hãnh diện và chứng kiến một thành phố toàn bọn giàu sang, thô bỉ, phường xu thời ngu ngốc, giăng mắc cờ xí, đám rước linh đình với quân nhạc rềnh rang nhân dịp hoàng đế Guillaume I đến. Ông viết về cho em gái: “Anh chịu không nổi ở đây.” Ông biết Wagner đang soạn vở Parsifal, một vở nhạc kịch diễm tinh ca ngợi tôn giáo, ca ngợi đạo Ky tô, ca ngợi công giáo và lòng trong trắng phép mầu! Ông kinh tởm, chạy trốn, ẩn mình tại một làng lân cận, rồi lại Bayreuth nhưng giữa những người nghe tán dương nồng nhiệt, ông là kẻ độc nhất lặng thinh.
Vài năm sau ông không trả lời đoạn phổ nhạc của vở Parsifal mà Wagner gửi lại, và Wagner cũng im luôn không nói gì đến cuốn Sự Vật Nhân Bản, thậm chí ông đi đến công kích, hay để kẻ khác công kích Nietzsche tuy không gọi tên nhưng chỉ định một cách rõ rệt trong tạp chí của ông Bayreuth Blatter. Thế là cuộc đoạn tuyệt xảy ra…
Vào cuối đời suy tưởng, nhìn về quá khứ, Nietzsche trở lại một phê phán bình thản hơn. Năm 1888, ông viết trong tập Ecce Homo: “Tôi không biết với Wagner điều gì sẽ xảy đến cho người khác; nhưng trên bầu trời của chúng tôi không có một đám mây vẩn đục bay ngang… Tôi vẫn coi Wagner là một ân nhân lớn nhất của đời mình.”
°
Với những bản văn đầu tay, Nietzsche bị các nhà học ngữ chính truyền công kích, đến mùa hè 1873, tại đại học Bâle, Nietzsche không còn sinh viên đều đặn nữa, cũng không còn ngay cả người dự nghe. Từ năm 1874, ông càng ngày càng bệnh hoạn. Tháng 6 năm 1875, một trận đau làm ông vắng mặt. Rồi những cơn đau đầu như búa bổ, chứng đau bao tử kinh hồn, những lần nôn mửa cỏ khi kéo dài đến cả vài giờ ; mắt ông trở nên đau đớn mỗi lần gặp ánh sáng hơi chói. Kỳ hè 1876, đại học Bâle chấp thuận cho ông nghỉ một năm.
Ông chấp nhận đau đớn thể xác với một hiểu biết nhẫn nhục. Cái lợi đầu tiên của bệnh hoạn đối với ông, là chính nó đã giải thoát cho ông khỏi cái nghề giáo sư và nghề làm nhà học ngữ. Giáo sư học ngữ Lichtenberger viết như trên.
Nietzsche đến Thụy sĩ, nơi thung lũng Rhône, tại Bex, rồi từ đó đến nước Ý mà ông rất ham thích sống, du hành. Ông đi thăm Gêne, Pise, Naples. Sau đó ông sống tại Sorrente vài tháng với người
bạn gái ông rất quyến luyến, cô Malwida von Meysenbug. Sinh trong một gia đình quan liêu bảo thủ, con gái một bộ trưởng, von Meysenbug đã bỏ đạo Ky tô, chấp nhận niềm tin duy lý, nhân bản, xã hội và quốc tế, như cô đã bày tỏ trong tác phẩm của mình, cuốn Hồi ký của một người theo chủ nghĩa duy tâm. Nietzsche, như ông Daniel Halévy viết trong cuốn sách rất lôi cuốn của ông là cuốn Cuộc đời Frédéric Nietzsche: “Rất mến yêu, càng ngày càng mến yêu thêm, người đàn bà năm mươi tuổi đó luôn luôn đau khổ nhưng can đảm, tế nhị và tốt bụng. Cái tinh thần tự tôn của cô ta quả không rực rỡ, nhưng tâm hồn cô rất cao thượng, Nietzs-che quý chuộng vô lường người đàn bà mang thiên tính đích thực là đàn bà đó.
Sống tại Sorrente với Nietzsche và cô là đôi người bạn chọn lọc, trong đó đáng kể nhất là một người Do thái trẻ tuổi tên Paul Rée, tác giả tập Quan sát tâm lý học. Trong một khung cảnh tráng lệ những người khách của cô de Meysenbug sống những chuỗi ngày quí giá, suy nghĩ, thảo luận, dạo chơi và đọc sách, khi một mình, khi tập hợp với nhau. Sáu tháng ở Sorrente là sáu tháng êm ả nhất mà Nietzsche được sống trên cõi đời. Ông lại còn đi thăm Wagner và Cosima ở gần bên cạnh.
Chính tại Sorrente mà Nietzsche ấn định những đường nét lớn lao cho học thuyết mới của mình, học thuyết mà đôi khi được gọi tên là duy trí. Chính vào thời kỳ này mà các nhà tư tưởng Pháp gây ảnh hưởng rất lớn trên ông. Nietzsche khen Montaigne, nhờ Cosima Wagner tặng bản in đẹp vào dịp Noél 1870 là “nhà luân lý tự nhiên” ông thích cái thông minh chói sáng của tác giả tập Tiểu Luận.
Ông nhìn thấy ở Pascal là kẻ “theo Ky tô hợp lẽ”, tháng 9 năm 1888, ông viết cho Goerge Brandès: “Chính Pascal, kẻ tôi có nhiều yêu mến, là người đã giáo dục tôi vô hạn.”
Với La Rochefoucauld, như Burckhard viết cho Nietzsche vào tháng 4 năm 1879 sau khi xuất bản cuốn Sự Vật Nhân Bản là “người ghen tức hơn một ngạn ngữ của Nỉetzsche”.
Và đến “một La Rochefoucauld của thế kỷ 18 nhưng cao cả và mang suy tư hơn nhiều ” Chamfort.
Bên cạnh những tên lớn lao đó, phải kể thêm Stendhal mà, vào năm 35 tuổi, Nietzsche vui sướng khám phá ra tác phẩm Đỏ và Đen của ông. Nietzsche thấy ở Stendhal “nhà tâm lý học sau chót”, ông thích cái thông minh trong sáng và tinh thần tự do hoàn toàn của Stendhal.
°
Tháng 5 năm 1877, Nietzsche rời Sorrente về Naples, rồi đến Lugano, đến suối tắm Rosenlani, quay về Bâle ông ở với người em gái, Lisbeth, từ tháng 9 năm 1877 đến tháng 6 năm 1878. Vào tháng 7 năm 1867, lúc rời bỏ Wagner trong những buổi trình diễn tại Bayreuth, Nietzsche đã viết vào sổ tay những tư tưởng và ngạn ngữ mà sau này vào tháng 9 tại Bâle, ông đọc cho một sinh viên, cũng là kẻ ngưỡng mộ ông hết lòng, anh Koeselitz, mà ông đặt cho tên riêng là Peter người khách trọ (Peter Gast) chép. Những tư tưởng khác được ông thêm vào ở Sorrente, rồi ở Rosenlani. Bản thảo được hoàn tất tại Bâle vào tháng 5 năm 1878 mang nhan đề Sự Vật Nhân Bản. Bản in đầu tiên được đề tặng “để tưởng nhờ Voltaire, nhân lễ kỷ niệm hàng năm ngày tạ thế. 30 tháng 5 năm 1878”.
Nietzsche trong cuốn Ecce Homo gọi tác phầm đó là công trình mang một tự kỷ luật khắc khe nhắt, bởi kỷ luật đó mà tôi cắt đứt mọi thứ duy tâm, cuồng nhiệt thiêng liêng, tình cảm đẹp đẽ và mọi thứ nữ tính khác. Như vậy tác phẩm đó chính là công trình đáng ghi nhớ của một cơn khủng hoảng. Nietzsche bệnh hoạn thường xuyên đến nỗi phải nghỉ dạy luôn. Ông không còn đọc được nữa, chính bạn bè phải đọc, chép lại ghi chú và sửa bản thảo cho ông. Ông kéo dài một đời sống (như trong thư viết về cho mẹ) “ba phần tư là đau khổ, một phần còn lại là kiệt sức”. Ông sợ phải mù mắt mất, càng ngày càng buồn thảm, thử làm thầy thuốc cho chính mình bằng cách chế ra những cách chăm sóc vệ sinh riêng.
Sau cùng ông hoàn toàn bỏ dạy. Tháng 5 năm 1878 ông đệ đơn từ chức. Hội đồng hạt Bâle chấp thuận cấp cho ông số tiền hưu trí là 1000 phật lăng, trường Đại học phát một phụ cấp hàng năm là 1000 phật lăng liên tiếp trong sáu năm, Hội hàn lâm cũng thêm vào 1000 phật lăng. Nietzsche có thể sống một đời độc lập giản dị. Từ đây ông đã có những phương tiện vật chất để sáng tác nghĩ ngợi và mua sách vở. Tháng ba năm 1879 ông cho xuất bản cuốn Quan điểm và phương ngôn lẫn lộn như là phần phụ chú của cuốn Sự Vật Nhân Bản. Rồi ông xuất bản phần phụ lục thứ hai dưới nhan đề Người du hành và chiếc bóng vào đầu năm 1880.
Tháng hai năm 1880 ông quyết định rời nước Đức tiến về miền Nam. Ông để cho người học trò trung thành và đầy thiện cảm của ông, nhạc sĩ Peter Gast, đưa đến Venise, thành phố của “trăm mối cô đơn”, nơi ông thấy thoải mái vì cái cần thiết yên tĩnh của mình. Ông ở đây đến cuối tháng sáu.
Sau bao nhiêu lần đổi chỗ, ông định cư ở Gênes, từ tháng mười một năm 1880 đến tháng tư năm 1881. Ông chọn một căn gác xép trong một đường hẻm gợi cảm (Charles Andler ghi chú: ông chọn sành sỏi chỗ trọ rất hợp cho cuộc sống của ông. Xóm giềng ngạc nhiên về tính khiêm tốn và lịch sự đáng vêu của ông, họ gọi ông là ông thánh, ông thánh nhỏ ; il santo, il piccolo santo.
Ở Venise, ông đọc cho Peter Gast chép những tư tưởng của ông đầu tiên góp lại dưới nhan đề Bóng thành Venise. Ông cũng còn có thêm vào đỏ những ngạn ngữ khác. Tất cả, xuất bản năm 1881, dưới nhan đề Bình Minh Suy nghĩ về các thành kiến luân lý. “Với cuốn sách này tôi bắt đầu một trận chiến chống luân lý”, Nietzsche viết trong cuốn Ecce Homo. Chúng ta sẽ trinh bày sau đây học thuyết được Nietzsche hóa công thức trong Sự Vật Nhân Bản, cùng với hai phần phụ lục và cuốn Bình Minh.
°
Tháng sáu năm 1881, Nietzsche dời đến thung lũng đẹp đẽ của vùng 'Cao-Engadine, nơi từ đó ông sống qua mọi mùa hè, trừ năm 1882. Ông chiếm một phòng nhỏ của căn nhà sàn ở ngôi làng xinh xắn Sils-Maria, ông cho đó là “cái góc đẹp nhất trên trái đất”. Chính vào thời kỳ này mà lần đầu tiên ông đọc Spinoza, ông sung sướng khám phá ở Spinoza “một người tiền phong”.
Một ngày tháng tám năm 1881, sau khi dạo quanh bờ hồ thơ mộng Silvaplana, ông dừng lại nơi một tảng đá rất lớn dựng đứng gần Surlej. Thình lình ông rùng mình vì một linh thị. Ông trực nhận được cái trở về vĩnh cửu: thế giới trước mắt diễn đi diễn lại cùng một cảnh trí, và mỗi lần như thế, con người thực sự bắt đầu lại cuộc sống của mình. Đấy là luận đề của đạo thờ lửa, đạo Bà la môn và nhất là đạo Phật. Người ta cũng tìm thấy nó trong triết học Hy lạp với những triết gia trước Socrate. Rõ ràng ở đây Nietzsche chịu ảnh hưởng Đông phương – Anaximandre và Héraclite, những kẻ theo Pythagore và các nhà khắc kỷ, toàn là ở nguồn gốc Tiểu Á. Giờ đây niềm tin kia trở lại mãnh liệt trong ông, ông trực cảm một niềm vui ~xuất thần với tư tưởng đó. Ông ghi vội ý tưởng kia trên giấy với những giòng chữ:
“Trên cao hơn mặt biển 6.000 bộ, và còn trên cao hơn nữa, còn hơn mọi thứ của con người “.
Ông Andler viết về điểm này : ” Chứng loạn ký ức đưa đến các tri giác mới nhưng thật ra nhìn bề ngoài đối với ta dường như đã thấy rồi. Xuyên qua linh thị ở Surlej lâ tất cả hiểu biết xưa cũ của con người lần này lại xuất hiện với ông trong một ảo ảnh của lửa thiêng “.
Tại Gênes, nơi ông trở lại vào mùa thu năm 1881, ông chợt cảm thấy sức khỏe phục hồi, ông tận hưởng được cái sung sướng của người lành bệnh. Ông viết về cho em gái: “Ở Gênes. anh rất sung sướng và kiêu hãnh, anh là tất cả nguyên lý Doria, là tất cả Kha luân bổ. Anh dạo chơi trên những đỉnh cao với bài ca vui vẻ và với cái nhìn về tương lai mà chưa ai dám nhìn. Em tin anh đi, đỉnh cao nhất của suy tưởng và của công tác luân lý Châu Âu giờ phút này ở anh “.
Ngày 27 tháng 11 năm 1881, ông sung sướng khám phá ra tác phẩm âm nhạc đã mê hoặc và mê hoặc ông đến suốt đời, bản Carmen của Bizet. Trong tháng 7 và 8 năm 1881, ở Sils-maria, Nietzsche phác những ghi chú cho một tác phẩm mới. Ông thêm vào đó những tư tưởng đã ghi lại ở Gênes trong mùa thu 1881. Ông hoàn thành việc biên soạn cuốn sách này trong vòng một tháng ” tháng đẹp nhất của mọi tháng giêng” (1882). Ông đặt tên cho tác phẩm của mình là Hiểu Biết Hài Hòa thêm vào với nhan đề tiếng Đức hai chữ La gaya Scienza. Tác phẩm ra đời năm 1882. Sau này, trong lần xuất bản năm 1887, ông thêm vào một lời tựa, một quyển thứ năm và những bài ca của ông hoàng Vogenfrei. Cuốn sách này là một chuyển tiếp từ thời kỳ duy trí sang thời kỳ tác phẩm Zarathoustra. Vào trang chót của quyển thứ tư – Nietzsche viết trong Ecce Homo – ” Một tia sáng kim cương rực rỡ về những lời đầu tiên của Zarathoustra “.
Tháng sáu năm 1888, Nietzsche viết cho một người ngưỡng mộ mình ở Mỹ: “Bình Minh và Hiểu Biết Hài Hòa là hai tác phẩm tôi yêu mến nhất và là hai tác phẩm riêng tư nhất”.
°
Từ Messine, nơi ông ở vào tháng 4 năm 1882, Mlawida von Weysenbug gọi Nietzsche về La Mã. Cô gái này có quen một thiếu nữ muốn làm thư ký cho Nietzsche (chắc hẳn cô vẫn chưa quên lời ông viết trong một bức thư tám năm về trước: “Điều tôi cầu mong cho mình, có lẽ hơn hết, là có một người vợ hiền.”) Cô gái đó là Lou Salomé, một thiếu nữ Phần Lan xinh đẹp, hết sức thông minh, say mê nhạc Wagner. Nàng còn giữ kỷ niệm u buồn của mối tình ngang trái với một giáo sư dạy mình, mà ông này đã có gia đình và thương yêu vợ hết mực. Nàng đã gặp Paul Rée, và bởi ông này và bởi cô von Mesenbug mà nàng nghe đến danh tiếng Nietzsche. Các nhà tiểu sử Nietzsche phê phán con người của Lou Salomé bằng nhiều cách khác nhau. Về điểm này ông Charles Andler viết: ” Các cô sinh viên Nga đi tim chồng đó đôi khi là món trang sức nhưng thường vẫn là tai họa cho các đại học Âu châu từ nửa thế kỷ nay “.
Nietzsche đến và được giới thiệu với Lou Salomé vào một buổi sáng tại nhà thờ Saint-Pierre và ở suốt ngày tại bờ hồ Orta với bà và cô Salomé, có Paul Rée bên cạnh. Ông có cảm tình tốt ngay và nhìn thấy ở Salomé người bạn gái tiền định, ông viết: “Đó là người đàn bà thông minh nhất, “dưới cái vẻ bề ngoài là một thiếu nữ đích thực, nàng có cái nhìn sắc bén của con phượng hoàng và cái bạo gan của con sư tử”. Cho rằng không thể làm bạn với nàng không thôi, Nietzsche quyết định cầu hôn. Lời dạm hỏi được Paul Rée chuyển đi. Lou Salomé từ chối, nhưng nàng và Paul Rée quyết không để Nietzsche buồn vời câu trả lời đó. Nietzsche đưa Lou lại viếng Tribschen, gần Lucerne ; ông thố lộ với người thiếu nữ những vui sướng và khổ tâm mà Wagner đã gây ra cho ông. Để đem Lou lại gần Lisbeth, ông đưa cả hai đến Bayreuthe nghe nhạc kịch Parsifal. Cả hai đều được Cosima mời, Lisbeth tỏ ra ghét Lou và chồng đối mọi ý định hôn nhân, làm quen.
Người thiếu nữ Phần Lan nọ đưa cho triết gia một bài thơ đẹp nhan đề Gửi Đau thương:
“Ai xua đuổi một lần khi em lại
Khi anh nhìn đôi mắt thẩm đêm đen
Em đâu nỡ bỏ đi khi anh chờ tay hái
Đau thương ơi muôn năm không lìa đời”…
Nàng còn gửi tặng một bài thơ khác, bài Cầu nguyện cho cuộc đời, kết thúc bằng những câu:
“Không còn hạnh phúc để cho
Thì em xin nhận những dày vò kia”.
Từ tám năm nay Nietzche không còn sáng tác nhạc, bởi quá cực nhọc, nay ông soạn những câu thơ kia vào phân bè của một bài Ca thánh cho cuộc sống, đó là những tiếng kêu đau thương nhất của Nietzsche, ông Andler viết.
Nietzsche mơ đến chuyện cùng Lou sang sống ở Paris. Tuy nhiên ông đau khổ vì sự thân mật giữa Lou và Paul Rée: Sau cùng người thiếu nữ thú nhận không yêu ông chỉ muốn là bạn của ông. Nietzsche viết cho nàng một bức thư vô cùng nghiêm trang. Ông giận Paul Rée và kết án ông này phản bội.
Câu chuyện tình sử kia chấm dứt đau xót vào đầu tháng mười một năm 1882. Nietzche đau khổ điên cuồng vì cuộc phiêu lưu này. Ba lần, ông toan (hay cố gắng) uống độc dược tự tử.
°
Từ đó ông sang Ý để tìm quên lãng, ngụ tại một quán trọ khiêm tốn, nhưng rất đẹp, mà thời đó ít ai biết đến, quán Rapallo trên sông Riviera thuộc vùng Gênes. Ông ở đấy từ cuối tháng mười một đến cuối tháng hai năm 1883. Vào tháng giêng năm 1883 lại có một linh thị khác, ông tả lại như sau: “đột nhiên, như chia làm hai. Zarathoustra lướt lại gần tôi”, trong cuốn Ecce Homo, ông phân tích ” kinh nghiệm cảm hứng” ông đã gặp và nói đến một thứ ” mặc khải “. Bản văn này, theo Charles Andler là “chứng tích cơ bản của một chủ nghĩa thần bí không Thượng đế mà người ta chưa hề biết từ khi có đạo Phật đến nay “.
Chính tiên tri Zarathoustra là kẻ đến rao giảng quan niệm của Nietzsche về Siêu Nhân và Trở Về Vĩnh Cửu.
Nietzsche soạn phần đầu của cuốn Zarathoustra trong mười ngày và ông kết thúc vào ngày 13 tháng hai năm 1883 đang lúc nghe tin Charles Wagner từ trần. Ông gửi cho Cosima một bức thư chia buồn tha thiết, nhưng không được trả lời.
Tại La Mã trong một chỗ- trọ ở vùng Barberini nơi có thể nghe dưới mình tiếng suối chảy, ông soạn bài Ca thánh cho đêm đen, để ở phần hai của cuốn Zarathoustra, ở đây “Ariane-Cosima ” hiện hình, dù không được gọi đích tên. Trong 10 ngày từ cuối tháng sáu đến tháng bảy năm 1883, ông kết thúc phần hai tại đó, tại Sils-Maria.
Ông bắt đầu phần ba và hoàn thành vào tháng giêng năm 1884 ở Nice. Ông định cư tại thành phố này, nơi ông yêu thích bến tàu, những góc đường cổ kính, ánh nắng và bầu trời “hạ chí”.Theo Hans Vaihinger, một trong những nhà bình chú Nietzsche, cần phải biết Riviera để hiểu Nietzsche.
Về lại Sils-Maria, vàn tháng 8 năm 1884, Nietzsche gặp một người ngưỡng mộ trẻ tuổi, thông minh, bạn của Wagner, Heinrich von Stein, có lẽ do Lisbeth Nietzsche hay Malwida von Meysenbug hay cũng có thể do Cosima gởi đến. Ông hy vọng tìm thấy ở chàng trai trẻ đó một học trò, nhưng ông không thành công khi muốn dứt chàng ra khỏi ảnh hưởng Wagner. Đó, đối với ông là một tuyệt vọng mới nữa.
Một nỗi buồn khác: Lisbeth, trước khi báo dự định của mình cho Nietzsche biết và cũng không hỏi ý kiến của ông nữa, đã đính hôn với một nhà văn có khuynh hướng Đại Đức (tức liên hiệp Nhật Nhĩ Man), một nhà thực dân, bài Do Thái và mê Wagner, Bernhard Fœrster. Nietzche viết cho em ông cảm thấy lễ đính hôn kia như “một việc bẩn thỉu và xúc phạm lớn”. Nhưng rồi ông cắn răng chịu đựng, cầu chúc hạnh phúc và can đảm cho người mà ông gọi là “con lạc đà thân yêu ” của minh.
Tại Men ton vào tháng 11 năm 1884, sau một thời gian gián đoạn, ông khởi soạn và kết thúc phần bốn của cuốn Zarathoustra vào tháng hai năm 1885.
Zarathoustra của Nietzsche vừa là một tác phẩm triết học, vừa là một thiên anh hùng ca bằng văn xuôi và, như Andler nói, là một thứ Phúc Âm. Nietzsche tính kết thúc tác phẩm bằng một kịch bi trình bày cái chết của vị tiên tri: vậy có bốn cảnh, hai cảnh trước, hai cảnh sau của phần bốn.
Phần đầu của cuốn Zarathoustra đã nói nhu vầy xuất bản tháng 5 năm 1885 một cuốn sách dành cho tất cả và cũng chỉ dành cho một người ; phần hai thảng 5 năm 1883, phần ba tháng 4 năm 1884, bản in đầu tiên của cả ba phần có mặt vào cuối năm 1886. Với phần bốn, Nietzsche không tìm được nhà xuất bản ; ông bắt buộc phải bỏ tiền riêng để in với số giới hạn là 40 bản chỉ để tặng bạn bè. ” Một trong những văn xuôi hay nhất của Đức suýt không chào đời được ” ông Andler viết.
Bản in đầu tiên gồm cả bốn phần của Zarathoustra đã nói như vầy đến năm 1892 mới được in ra.
Dù không thành công, Nietzsche vẫn không nghi ngờ giá trị tác phẩm của mình. Nietzsche viết cho nhà xuất bản: ” Đó là cuốn Phúc âm thứ năm ” ; và viết cho Peter Gast ” Đó là việc tốt đẹp nhất tôi đã làm được…Tôi chẳng còn gì nặng nề và vui thích hơn nữa “, và ông viết trong Ecce Homo: “Tác phầm này tuyệt đối là một tác phẩm riêng biệt…Chưa hề có gì được sáng tạo bằng sức lực phong phú đến thế…Với cuốn Zarathoustra, tôi đã cống hiến cho loài người quà tặng đẹp đẽ nhất, món quà họ chưa bao giờ nhận được nơi ai “.
°
Rồi lần lượt Nietzsche sống ở Nice, ở Venise, ở Turin, Sils-Maria.
Để biện minh cho chủ đề Trở về Vĩnh Cửu, Nietzsche muốn mở rộng kiến thức khoa học của mình, ông bận rộn với vật lý, học vật sống, học tâm lý, nghiên cứu thuyết biến hóa, thuyết di truyền, những tác phẩm của nhà học tâm lý Pháp Ribot, nhất là cuốn Bệnh trạng con người. Ông cũng đọc một vài tác giả luận lý Pháp, Guyan chẳng hạn, ông này chú giải cuốn Vẽ phác một nền luân lý không cưỡng ép và trừng phạt. Hiếu học tất cả, ông để ý đến Beaudelaire và các văn phái suy đồi ở Pháp, đến Maupassant và cả đến các nhà tiểu thuyết Nga, nhất là Dostoievsky, ông đã tình cờ khám phá ra Dos. Trong một bức thư gửi cho Overbeck, ngày 23 tháng 2 năm 1887, ông so sánh việc gặp gỡ tình cờ này: với lần đầu tiên ông xúc động khi đọc cuốn Đỏ và Đen của Stendhal.
Nhờ một sưu tập ở nhà một người bạn Đức ông khám phá ra nghệ thuật Nhật Bản, những bức họa thủ ấn của trường phái binh dân Nhật. Ông viết cho em mình: ” Ở Venise, anh cảm thấy sung sướng, bởi đây người ta có thể sống theo cách Nhật Bản mà không cực nhọc lắm. Tại sao em không sang Nhật, nơi đó đời sống vui vẻ nhất, nhiều cảm tình nhất “.
Ông bắt đầu ở Sils-maria, trong mùa hè năm 1885, tiếp tục và chấm dứt tại Nice năm 1886, một tác phẩm mời, cuốn Bên kia cái Thiện và cái Ác, mà ông bỏ tiền ra in. Ông nhìn thấy ở đây phần tiêu cực của hành động mà phần tích cực đã được trình bày ở cuốn Zarathoustra, tức phần phê phán các giá trị phổ biến đã được chấp nhận. Với tác phẩm này, tiếng Đức đã đạt đến một âm điệu trong suốt và thuần túy nhất chưa bao giờ người ta nghe đến.
Ông soạn năm lời tựa cho các tác phẩm trước để in trong lần tái bản trong bộ sách toàn thư, vui thích khi tim thấy lại trong các cuốn sách đầu tiên của mình triết lý của điều người ta thường gọi là thời kỳ thứ ba của ông. Ông viết thêm chương thứ năm cho cuốn sách trong lần xuất bản lại năm 1887.
Tháng 6 năm 1887, ở Sils-maria ông viết cuốn Phổ hệ luân lý, cuốn sách mà ông giới thiệu trong tập Ecce Homo như là một tác phẩm bút chiến ” phần phụ thuộc của cuốn Bên kia cái Thiện và cái Ác “.
Đứng trước sự không thành công do các tác phẩm mình gặp phải, Nietzsche tự hỏi phải chăng cuộc đời mình khốn đốn đến nơi. Ông mơ chinh phục nước Bức bằng âm nhạc của mình, năn nỉ Peter Gast phân tấu bản Ca thánh cho cuộc sống của mình. Ngưỡng mộ Bizet, càng ngày càng chán ghét nhạc Wagner, ông muốn hủy bỏ bày Intempestive, với Wagner ở Bayreuth ; tháng 5 năm 1888 ông bắt đầu viết ở Turin và kết thúc vào tháng sáu lại Sils- Maria một Intempestive mới, Trường hợp Wagner ; cuốn Một vấn đề âm nhạc xuất hiện tháng chín cùng năm. Phần phụ lục của cuốn sách nhỏ kia sẽ là một tập mỏng khác, được sửa chữa ở Turin tháng 12 năm 1888, cuốn Nietzsche chống Wagner.
Mùa hè năm 1888 tại Sils-maria ông viết cuốn Hoàng hôn của những Thần Tượng là tác phẩm có phụ chú Ta triết lý bằnq nhát rìu như thế nào, một nỗ lực tiếp tục phá hủy những tư tưởng tôn giáo và luân lý cổ truyền. Tác phẩm đó chỉ xuất bản vào tháng giêng năm 1889, sau lần khủng hoảng cuối cùng.
Cùng một cảm hứng đó đưa đến tác phẩm Kẻ chống Kytô, soạn tháng chín năm 1888 ở Sils-maria và Turin, nó làm thành quyển đầu tiên của tác phẩm lớn mà ở đó ông suy nghiệm về Lật đổ tất cả các giá trị. Tất cả các ghi chú khác được sửa chữa từ năm 1886 đến năm 1888, cho tác phẩm dang dở này được xuất bản vào tháng chín năm 1901 dưới nhan đề Ý chí hùng tráng, tiểu luận về việc đảo tất cả các giá trị. Những trang sâu thẳm nhất của Nietzsche được tìm thấy trong tác phẩm này.
Chúng ta sẽ tóm tắt lý thuyết trình bày trong cuốn Zarathoustra và các tác phẩm kế tiếp.
Đến đây ta thấy tất cả các tác phẩm của Nietzsche đã chứng tỏ một sức mạnh tâm thần thật đáng phục và một quân bình hoàn toàn. Thật là vừa bất công và vừa phản khoa học khi viện dẫn, cũng như một phê phán triết học đó, nỗi khủng hoảng đã chấm dứt đời sống trí thức của triết gia. Người ta cũng không kết án được âm nhạc của Schumann khi nhớ đến thảm nạn đã chấm dứt cuộc đời đau khổ nọ.
Vào những tháng cuối năm 1888 là thời gian tình trạng tinh thần của Nietzsche tệ hại hơn cả. Tháng 10 năm 1888 tại Turin, Nietzsche bắt đầu – và chấm dứt vào tháng 11 – một loại tiểu sử tự thuật, và trong ý tưởng của Nietzsche, dành để sáng tạo một căng thẳng khẩn trương cho phép gợi sự chú ý của quần chúng về tác phẩm Lật đổ mọi giá trị, tức cuốn Ecce Homo. Tác phẩm gây một lưu tâm hết sức lớn lao cho các nhà viết tiểu sử của triết gia và cũng chỉ là tác phẩm duy nhất của Nietzsche mà ta có thể tìm thấy mầm mống của cơn bệnh hoạn sắp đến của ông.
Ecce Hom kết thúc bằng câu: ” Dionysos đối mặt với kẻ đóng đinh trên thập tự ” Tự đấy, trong tinh thần Nietzsche, khi ông cảm thấy chống đối nhau, khi ông thấy hòa hợp và lẫn lộn giữa Dionysos và Jesus. Với cái dao động kinh hồn này, lý tri của ông suy sụp. Cuối tháng 12 năm 1888, qua Turin, ông là kẻ loạn óc. Ông viết cho Strindberg, cho Burckhardt, cho Peter Gast những bức thư điên cuồng, đôi khi ông ký tên Nietzsche-César. Ông gửi đến Cosima mảnh giấy thú nhận tình yêu với Ariane. Lần ra đường cuối cùng; nhìn thấy người đánh xe đánh đập vào đầu con ngựa rất tàn nhẫn, ông quỳ xuống ôm cổ con vật khốn nạn dịu dàng hôn nó, rồi xây xẩm ngã lăn ra: hành động sau chót trước công chúng của người khinh miệt lòng nhân từ, của kẻ đề cao bạo lực là hành động trắc ẩn đối với một con vật khốn khổ.
Được Burckhardt báo tin, Ovebeck đến tìm Nietzsche ở Turin ngày 9 tháng giêng năm 1889. Khi được người bạn dìu đưa đi, kẻ bất hạnh kia đọc bài thơ ông đã làm từ lâu về Venise, có in trong những bài thơ đặt sau chót tập Ecce Homo:
“Tỳ tay trên cầu
Tôi đứng trong đêm sương
Một điệu hát từ xa vẳng lại gần
Những giọt vàng róc rách
Trên mặt nước run lạnh
Thuyền nan, âm nhạc, ánh sáng lập lòe…
Mọi vật trôi về buổi hoàng hôn
Tâm hồn tôi là hòa âm của một cây đàn
Ngâm lên cho chính mình nghe
Vô hình không đụng chạm đến được
Một bài ca của kẻ chèo thuyền nan
Run lẩy bẩy trong sắc màu toàn phúc
– Có người nào nghe tiếng hát kia không?
Ovebeck đưa ông đến một nhà thương ở Bâle. Sau đó gia đlnb Nietzsche sắp đặt cho ông một chỗ ở nhà thương Iéna ; rồi mua cho ông một căn nhà ở một thành phố nhỏ quang đãng và thanh nhã, Weimar. Ông sống nơi đây vài năm. Một ngày kia hồi tưởng lại đôi kỷ niệm, ông hỏi: “Có phải mình đã viết những cuốn sách hay kia không “. Ông từ trần tại Weimar ngày 25 tháng 8 năm 1900.
Thi hài được an táng ở nghĩa địa Rœcken nơi cha mẹ ông an nghỉ, không nghi lễ tôn giáo. Khi tang lễ cử hành, một sinh viên lạ mặt, tiến đến trước mồ, đọc đôi lời rất cảm động, bày tỏ lòng biết ơn của giới thanh niên.
°
Trong cuộc đời cuồng si đó, đâu là cá tính tiêu biểu nhất?
Thiên nhiên đã phú cho Frédéric Nietzsche một cảm tính bén nhạy, một thông minh tế nhị và hùng mạnh, một tinh thần ham học hỏi tất cả và một trái tim dịu dàng thèm khát yêu thương.
Giáo dục đã phát triển những đức tính bầm sinh kia.
Và nơi kẻ thù của đạo Ky tô đó là người ta có thể tìm thấy rất nhiều tinh thần tân giáo, tinh thần mà những nhà thần học là tổ tiên ông cổ xúy và cha mẹ ông khơi dậy. Thí dụ có lần trong bức thư cho Rohde, ông tuyên bố sự thù hận đạo Thiên chúa: ” Tôi chưa bao giờ cảm thấy mình đầy tinh thần Luther như vậy. Tòi ca ngợi cái không khí tốt lành và thuần khiết đó “
Những người tân giáo luôn luôn tìm cách kết hợp một luân lý có nền tảng tôn giáo và một tinh thần phê phán tự do. Cả hai khuynh hướng đó đều tìm thấy trong đặc tính của Nietzsche, những người thân yêu nhất của ông ít ra cũng nhận thấy điều đó. Nhắc lại những ngày ở Sorrente, Malwida von Meysenbug viết ” Cái dịu dàng, tử tế của Nietzsche linh động biết bao. Bản tính hiền lành dễ mến đã điều hòa được óc thông minh phá hoại của ông!”.
Dáng điệu khiêm tốn, che giấu một kiêu hãnh ngấm ngầm, tôn trọng mọi cái cao đẹp đích thực, lòng tốt chủ tâm không gây đau khổ, ý muốn hàn gắn, xoa dịu, cứu chữa tâm hồn. Ngay cả lúc sau khi đã phê bình nghiêm khắc đức tin và luân lý Ky tô ở các tác phẩm thuộc thời kỳ mệnh danh duy trí, năm 1881, ông viết cho Peter Gast: ” Dù đã phá đạo Ky tô, tôi vẫn không quên rằng đời sống tinh thần của mình đã rút được ở đó nhiều kinh nghiệm quý giá. Tự thâm tâm tôi hy vọng chẳng bao giờ phải khó chịu khi đối mặt với nó “. Vì thế ông không ngừng yêu mến con người lý tưởng của Jésus.
Nhưng phụng thờ chân lý, ghê tởm dối trá là khả năng ông thừa hưởng được ở gia tài luân lý của tổ tiên. Chính đó là tình cảm khích động tinh thần phê phán của Nietzsche, cái ” thông minh phá hoại ” như Malwida von Meysenbug nói.
Nhà văn áo Stéfan Zweig, trong một nghiên cứu rất hay về Nietzsche, nhắc lại rằng chính Nietzsche đã dự định rất sớm viết một cuốn sách nhan đề Passio nuova hay Nhiệt tình thiết thực. Zweig bảo: ông đã không bao giờ viết cuốn đó nhưng (còn hơn nữa) ông đã sống nó. Bởi lòng thiết thực đầy đam mê và tình yêu chân lý mãnh liệt đến đau đớn biểu lộ cái tế bào sáng tạo trong sự trưởng thành và phát triển của Nietzsche. ” Người ta đã lầm lẫn khi gọi Nietzsche là nhà triết học, tức bạn của Sophia, của Hiểu Biết…. Phải gọi đúng hơn ông là một Philalethe, một kẻ đam mê dữ dội chân lý, Aletheia “.
Tính thiết thực nồng cháy đó ông áp dụng vào các vấn đề trọng đại nhất đặt ra cho ý thức con người. ” Những vấn đề to lớn của con người là những đam mê to lớn của Nietzsche “, một trong những nhà phê bình Đức về Nietzsche đã nói như trên.
Nietzsche đã đem tất cả ý chí hùng tráng để phụng sự cho lòng nhiệt thành đam mê nọ, một ý chí không ngại bất cứ nguy nan nào và hy sinh đi cả những ảo ảnh đẹp nhất. Ông nhất quyết phá hủy mọi thứ không phải là chân lý. Ông viết trong cuốn Ecce Homo là ” Tôi không phải là người, tôi là bộc phá “.
Ông chống đến cật lực mọi thứ dối trá….. luân lý cựu truyền và chủ nghĩa duy tâm đầu môi chót lưỡi. Ông chính là thứ “tôn giáo vô thần “, Henri Lichtenberger viết như vậy. Và ông đã trở nên kẻ vô luân bằng một thứ luân lý rất tế nhị.
Ông biết rõ những khó khăn mênh mông mà cố gắng bi thảm của ông sẽ gặp phải khi muốn xây dựng một luân lý ở ngoài mọi lý tưởng cựu truyền. Năm 1885, khi nói.chuyện với Lisbeth, ông bảo: ” Anh đối đầu với một vấn đề mênh mông, đó là khu rừng anh bị lạc vào, một khu rừng hoang (Wald und Urwald). Nếu gặp được người nào có thể chỉ rõ được giá trị các đức lý của chúng ta, anh sẽ nghe, sẽ đi theo họ, nhưng anh không tìm thấy một người nào cả;.. anh cô độc.” Hai năm sau, nghĩa là một năm trước khi đời sống suy tư của ông chấm dứt, ông thú nhận với Carl Fuchs: “Hầu hết những điều tôi đã viết ra đều phải xóa bỏ.”…
Tuy nhiên, đối với ông, một thời gian trong cuộc đời, ông đã tìm được khuây khỏa ở tư tưởng Siêu Nhân, ở lý tưởng Trở Về Vĩnh Cửu, ở lòng tin giải bầy trong Zarathoustra. Với ông, đó là một tôn giáo mới, một tôn giáo không dối trá.
Để khai sáng niềm tin này, nhà tư tưởng phải trở thành người tiên tri.
Và người biết trước đó phải lợi dụng những khả năng tuyệt vời của nhà nghệ sĩ.
Ngay từ nhỏ ông đã mê cái đẹp, cái thuần khiết, cái cao cả, rõ ràng. Ông yêu thích sâu xa âm nhạc và thi ca. Ông đã tìm thấy, đã sáng tạo một hình thái linh động, êm dịu, thấm thía và lôi cuốn để bày tỏ tư tưởng mình.
Ông ý thức rõ những phương pháp mà ông áp dụng tự nhiên đối với riêng ông các điều kiện của một Tác phẩm hòan tòan, ông viết, vào năm 1897: “Một độc thọai lý tưởng. Mọi cái có vẻ bề ngòai bác học ngấm lắng vào những chiều sâu thăm thẳm. Tất cả cường độ của đam mê sâu sắc, của lo âu và của cả ý muốn nữa… Tuyệt đối riêng tư. Nói đến sự trừu tượng nhất bằng cách thế cụ thể nhất, máu lệ nhất. Mọi sự vật phải rõ ràng, đích xác tột cùng, những thí dụ… phải tim lối diễn thường để thay thế các từ triết học… “.
Ông đã hoàn toàn thành công trong việc sáng tạo thẩm mỹ các biểu tượng kia. Và thực ông rất có thể tự hào chính đáng – như ông đã nói trong một thư gửi Rohde năm 1884 — đã đưa ngôn ngữ Đức tiến bộ đến chỗ như trước đây Luther và Goethe đã làm.
Đấy là một vài đặc tính chính yếu mà ta khám phá ra ở con người dữ dội, xao xuyến, lôi cuốn của nhà tư tưởng kia, đồng thời là nhà tiên tri, nghệ sĩ, kẻ sáng tạo một thứ triết lý sâu thẳm, đầy đam mê và trữ tình.
°
Ngày nay, trên thế giới, có một nơi người ta chuyên biệt sống trong tư tưởng của triết gia! Đó là căn nhà của Weima nơi chứa tác phẩm được mệnh danh là Nhà lưu trữ văn kiện Nietzsche, Nietzsche Archiv.
Đó cũng chinh là ngôi nhà ở Luisenstrasse nơi Nietzsche đã sống những năm cuối cùng của đời mình. Nó nằm vào cuối thành phố, trên đồi cao, ở một nơi rất đẹp.
Trong phòng chính, bên phải, có treo nhiều chân dung của Nietzsche và một khuôn mặt nắn theo hỉnh người chết đằng trước có đặt vài bông cúc. Ở giữa là bức chân dung cuối cùng của ông khi đau do Older vẽ, tác phẩm rất truyền cảm mà ai nhìn cũng không khỏi xúc động bồi hồi. Bên dưới là các hình chụp hay chạm của những ngời đã có mặt trong cuộc đời của nhà triết học: Ritschl, Burckhardt, Schopenhauer, Wagner, Tain, Brandès và một nhóm các sinh viên, giữa những bức đó là hình của Erwin Rohde, phía trái là một tấm bia đá cao, dưới một bức tượng hết sức đẹp của Nietzsche do Klinger tặng giữa những chòm lá cao, nhiều vòng hoa được đặt trước bức tượng. Phía trong tường là những tác phẩm đóng gáy mạ vàng của Nietzsche.
Bên cạnh một phòng làm việc có chứa nhiều chân dung, nhiều tác phẩm.
Chính em gái của triết gia Elizabeth Fœrster Nietzsche đã tập trung và cất giữ các bản thảo của ông với rất nhiều khó khăn tại Nhà lưu trữ văn kiện Nietzsche. Thư viện của Nietzsche cũng được tìm thấy ở đây với rất nhiều sách do ông ghi chú. Nơi đây tập họp và được sắp lại không những bản in khác nhau các tác phẩm của ông mà còn tất cả các sách, báo viết về ông bằng mọi thứ tiếng Âu châu và ngay cã tiếng Nhật: 1000 cuốn, 12.000 bài, bản văn, tạp chí, bài báo (tôi có tìm thấy, trên vài cuốn sách đó, những ghi chú bút chì của bà Fœrster, liên quan những viện dẫn của các phê bình).
Chính Nhà lưu trữ văn kiện Nietzsche có nhiệm vụ xuất bản tác phẩm triết gia – một nhiệm vụ không phải không gây ra những lời chi trích cũng như tranh luận bút chiến sôi nổi. Cơ quan này dự trù sẽ in, khi có phương tiện, một ấn bản phê bình các tác phẩm tòan thư, cùng với một thư mục.
Nhà lưu trữ văn kiện Nietzsche đầu tiên được sáng lập do tình thương anh của bà Fœrster khòng được trợ cấp bởi một Quốc gia, một trường Đại học, một cơ quan trí thức nào cả. Sau đó, chỉ có vài người giúp thêm phần đóng góp tài chính của họ. Ngày nay cơ quan được bảo trợ bởi Hội nhũng người bạn của Nhà lưu trữ văn kiện Nietzsche (Gesellschaft Der Freunde des Nietzsche Archivs), (phần đóng góp tối thiểu: 10 đồng mác).
Tất cả những ai lưu tâm đến Nietzsche đều có thể làm việc tại Nhà lưu trữ văn kiện. Người quản thủ thư viện, ông Max Œhler, có bổn phận trả lời tất cả các câu hỏi có thể trả lời đặt ra cho ông về Nietzsche, về triết lý cũng như các tác phẩm viết về tư tưởng của Nietzsche.