Eragon và Nar Garzhvog chạy không ngừng nghỉ, ngày cũng như đêm, chỉ dừng lại để uống nước và cho bớt căng thẳng.
Cuối ngày thứ hai, Nar Garzhvog nói:
– “Hỏa Kiếm, tôi phải ăn và ngủ một chút!”
Eragon tựa người vào một thân cây bên cạnh, thở hổn hển. Nó không muốn nói ra trước, nhưng nó cũng cảm thấy đói và kiệt sức như Kull. Chẳng mấy chốc sau khi rời khỏi Varden, nó nhận ra rằng trong khi nó có thể chạy nhanh vượt xa Garzhvog những năm dặm, thì sức bền của Garzhvog cũng ngang ngửa hoặc thậm chí hơn cả nó.
– “Tôi sẽ giúp ông săn bắn” – Nó nói.
– “Không cần thiết. Xin hãy đốt một đống lửa lớn, và tôi sẽ lấy thức ăn cho chúng ta.”
– “Được thôi.”
Trong khi Garzhvog sải dài đến một đám cây sồi phía Nam, Eragon tháo cái khóa thắt lưng, và với một tiếng thở dài khoan khoái, nó ném cái túi vào gốc cây bên cạnh. – “Một bộ giáp kinh khủng!” – Nó càu nhàu.
Trong khi ở Đế quốc, nó còn chưa phải đi xa khi chỉ mang một ổ bánh mì. Nó không thể biết được là có lúc như thế này. Bàn chân nhức nhối, hai cẳng chân mỏi nhừ, đến cái lưng cũng không cựa quậy nổi. Nó cố cúi xuống, tất cả những cái xương trên người nó như phản kháng kịch liệt hành động này ngay lập tức.
Cố quên đi sự khó chịu này, nó thu cỏ và những gốc cây khô để nhóm vào ngọn lửa mà nó đã tạo ra trên nền đá.
Nó và Garzhvog đang ở đâu đó phía đông nam của hồ Tudosten, đất dưới chân ẩm ướt và đầy sức sống, với những đồng cỏ cao những 6 feet, xa xa là những bầy hươu, linh dương và những con bò hoang dã khoác một bộ da đen và dày cùng những cặp sừng móc ngược về sau. Eragon biết, sự giàu có mà vùng đất này được hưởng, chứng minh rằng chúng đã đến rặng Beor, được bao phủ bởi những đám mây khổng lồ dài hàng dặm che phủ mặt đất, mang mưa đến cho vùng đất này mà nếu không có nó thì sẽ chẳng khác gì sa mạc Hadarac.
Mặc dù cả hai đã chạy được một quãng đường dài nhưng Eragon vẫn thất vọng vì tiến độ của họ. Chúng đã mất một vài giờ vì phải đi đường vòng và ẩn mình để tránh bị nhìn thấy khi băng từ song Riet đến hồ Tudosten. Giờ thì hồ Tudosten đã ngay bên cạnh chúng, nó hi vọng tốc độ chạy sẽ tăng. “Nasuada không thể đoán trước được sự chậm trễ này ít nhất cho đến lúc này. Ồ không! Cô ta hẳn nghĩ mình sẽ phóng một mạch đến Farthen Dur trong chớp mắt! Ha!” Đá vào một khúc cây chắn ngang đường đi, nó tiếp tục thu nhặt gỗ, càu nhàu mất một hồi lâu.
Một tiếng sau Garzhvog quay về, Eragon đã nhóm được một đống lửa lớn dài một yard và rộng gần hai feet và đang ngồi đối diện đó, chăm chăm vào ngọn lửa, cố chống lại cơn buồn ngủ ùa đến. Cổ nó kêu răng rắc khi phải ngước nhìn lên.
Garzhvog đứng trước nó, kẹp xác một con nai bụ bẫm dưới nách trái. Nhẹ nhàng như ôm một bao giẻ, hắn cắm đầu con nai vào cái chạc ba trên một cái cây cao hai mươi yard xa đống lửa. Sau đó rút ra một con dao để làm sạch xác con nai. Ẻragon đứng dậy, cảm giác như những cái xương của nó cọ vào tảng đá, ngần ngại nó tiến về phía Garzhvog.
– “Ông đã giết nó như thế nào vậy?” – Nó hỏi.
– “Bằng cái ná của tôi” – Giọng Garzhvog ùng ục.
– “Ông sẽ nướng nó lên chứ? Hay các Urgal thường ăn thịt sống?”
Garzhvog quay đầu lại, nhìn chằm chằm Eragon qua cuộn sừng cong bên trái nó, con mắt vàng khè và hàm răng trắng nhởn với một biểu lộ khó hiểu. “Chúng tôi không phải là thú, Hỏa Kiếm ạ.”
– “Tôi không có ý thế đâu.”
Với một tiếng ùng ục phát ra trong cuống họng (có lẽ là tiếng cười của Urgal), Garzhvog làm tiếp công việc của nó.
– “Sẽ mất nhiều thời gian để nướng đây” – Eragon nói.
– “Tôi nghĩ một món hầm, hay ta có thể rán nó trên một tảng đá”
– “Hầm? Như thế nào? Chúng ta không có một cái nồi.”
Với tay xuống, Garzhvog chà sạch tay phải trên mặt đất, sau đó lấy đồ nghề trong cái túi treo bên thắt lưng của nó, ném cho Eragon.
Eragon cố gắng bắt lấy nó nhưng vì quá mệt, nó bắt hụt, và cái vật đó đập xuống đất. Cái vật đó trông như một miếng da lớn khác thường. Khi nó nhặt lên, cái khối vuông đó mở ra, và nó thấy thứ đó có hình dạng của một cái túi, rộng một hay nửa feet và sâu ba feet.
Vành túi được củng cố bằng 1 miếng da dày, ở trên được may lại bằng những cái vòng kim loại. nó lật túi ra, tưởng tượng bên trong rất mềm và sự thật là không có đường chỉ khâu bên trong.
“cái gì vậy” nó hỏi.
“Dạ dày của 1 con gấu tôi đã giết cách đây 1 năm, từ khi tôi có sừng. treo nó trên ngọn lửa hoặc bỏ nó vào 1 cái lỗ, đổ đầy nước rồi bỏ đá nóng vào, đá làm nóng nước và món hầm sẽ rất ngon.”
“Nhưng mấy viên đá nóng đó không làm thủng cái dạ dày đó dược à?”
“Không đâu”
“Nó được yểm bùa rồi hả?”
“Không có phép thuật đâu, chẳng qua là do cái dạ dày rất chắc chắn.” Garzhvog thở hổn hển vì đang túm chặt hông của con nai, bằng 1 động tác ngắn gọn, hắn đã bẻ khung chậu của nó ra làm 2.hắn xẻ bộ ức bằng con dao nhỏ.
“Chắc con gấu đó to phải biết,” Eragon nói.
Cổ họng Garzhvog kêu rột – roạt: nó chỉ lớn hơn tôi 1 chút thôi, thưa Khắc Tinh Của Tà Thần.”
“Anh chỉ giết nó bằng ná bắn đá thôi hả?”
“Tôi bóp cổ nó bằng tay cho đến khi nó chết thì thôi. Không có vũ khí nào được chấp nhận khi bạn sinh ra trong thời đại này và phải chứng tỏ sự dũng cảm của chính mình.” Garzhvog dùng lại 1 tẹo, con dao của hắn cắm ngập sâu trong cái xác con thú. “Hầu hết mọi người không ai cố gắng giết gấu núi, mà bọn họ thường giết chó sói và dê núi.đó là lí do tại sao tôi trở thành thủ lĩnh còn những người khác thì không.”
Eragon rời khỏi chỗ hắn đang chuẩn bị bữa ăn, nó đi về phía đống lửa. Sau đó, nó đào 1 cái lỗ, chỗ để cái dạ dày gấu, rồi gắn cọc nhọn vào mấy cái vòng kim loại để cố định cái dạ dày.xong xuôi nó gom khoảng 1 tá những viên đá cỡ quả táo ở xung quanh đó rùi bỏ vào giữa ngọn lửa. trong lúc chờ cho đá nóng lên, nó dùng phép thuật đổ đầy nước vào cái dạ dày, nó còn làm 2 cái kẹp bằng cây liễu nhỏ cùng với 1 mảnh da sống được thắt nút.
Khi đá đã nóng đỏ, nó kêu lên “ sẵn sàng rồi!”
“Bỏ vào đi” Garzhvog đáp lại.
Sử dụng cái kẹp, Eragon nhấc viên đá gần mình nhất lên rùi bỏ nó vào cái “túi” 1 cách chuẩn xác. Mặt nước xỏi bọt khi viên đá chạm vào.nó bỏ thêm 2 viên đá nữa vào cái dạ dày gấu, làm cho nước sôi cuồn cuộn.
Garzhvog xẻ 1 miếng thịt dùng cho 2 người và bỏ vào nước, rồi thêm muối,1 ít cành hương thảo,cỏ xạ hương lấy từ túi đeo trên thắt lưng,và vài loại cây màu xanh mà hắn tình cờ lượm được trong khi đi săn. Xong xuôi hắn đặt 1 tảng “đá phiến sét” rộng, bằng phẳng ngang qua ngọn lửa. khi tảng đá đã nóng, hắn rán 1 lát thịt trên đó.
Trong khi chờ đợi thức ăn được nấu xong, Eragon và Garzhvog tự làm cho mình muỗng từ cái gốc cây mà eragon để đồ đạc.cái đói làm Eragon cảm thấy thời gian trôi chậm rì, nhưng lát sau, cái “túi” đã chín, và nó cùng Garzhvog ăn ngấu nghiến như chó sói vậy.Eragon ăn nhiều gấp 2 lần bình thường, nó tưởng như không thể tiêu thụ được lượng thức ăn như vậy. Garzhvog cũng vậy, hắn ăn thức ăn đủ cho 6 người đàn ông lực lưỡng.
Sau đó, Eragon nằm xuống, dựa người vào khuỷu tay, và nhìn chằm chặp vào ánh sáng lóe lên cạnh đỉnh cây sồi, nghĩ vẩn vơ về ai đó mà bọn nó đang theo đuổi. đâu đó vẳng lên tiếng cú kêu, mượt mà nhưng hơi khàn khàn. 1 vài ngôi sao đầu tiên xuất hiện làm lốm đốm bầu trời màu tía.
Eragon nhòn chòng chọc không nghĩ đến Saphira và Arya, và rồi nó nhắm mắt lại, 1 cảm giác uể oải trỗi dậy trong đầu nó. Nó nghe tiếng kêu răng rắc, mở mắt ra nó thấy Garzhvog đang chà răng bằng 1 cái xương đùi bị gãy bên cạnh cái dạ dày gấu. Eragon đưa mắt xuống đôi chân của Urgal- Garzhvog đã bỏ dép ra trước bữa ăn- và nó ngạc nhiên nhận ra rằng mỗi bàn chân của Urgal có 7 ngón.
“Người lùn cũng có số ngón chân như anh vậy,” nó nói.
Garzhvog nhổ 1 mảnh thịt vào đống lửa.” tôi không biết điều đó. Tôi chưa bao giờ muốn nhìn chân của người lùn”.
“Anh không tò mò là vì sao Urgal và người lùn có 14 ngón chân trong khi thần tiên và con người chỉ có 10 ngón ư ?”
Môi của Garzhvog nhếch lên, gầm gừ:” chúng tôi không đổ máu với nhũng con chuột núi không có sừng ấy, Hỏa Kiếm. bọn chúng có 14 ngón chân, chúng tôi cũng có 14 ngón chân. Hãy hài lòng với những gì ông trời ban cho chúng ta từ khi tạo lập trời đất. không có sự giải thích nào khác đâu”.
Eragon càu về câu trả lời và nó quay lại nhìn vệt sáng lúc nãy. Rồi:” kể cho tôi câu truyện của anh đi, Nar Garzhvog.”
Tên Kull cân nhắc 1 lát, rồi bỏ xương ra khỏi miệng, hắn nói:” rất lâu trước đây, có 1 Urgalgra, tên cô ấy là Maghara. Sừng sáng bóng như đá vậy, tóc ngang lưng, và nụ cười thì quyến rũ cả chim trên cây. Nhưng cô ấy không xinh đẹp, mà lại còn xấu xí nữa. bấy giờ, trong làng có 1 con đực rất khỏe mạnh.hắn đã giết 4 con đực khác trong 1 trận đấu vật và đã đánh bại 23 con đực khác. Cho dù trận chiến đã làm cho danh tiếng hắn vang dội, hắn vẫn chưa chọn được người bạn đời ưng ý. Maghara ước mình được làm ngưởi bạn đời của hắn nhưng hắn không để ý gì đến cô cả, bởi vì cô xấu xí. Vì sự xấu xí đó mà hắn thấy được cặp sừng bóng lộn, mái tóc dài và giọng nói thánh thót đó của cô. Đau khổ trong lòng, cô trèo lên đỉnh cao nhất của ngọn Spine, và kêu to tên của Rahna để giúp cô. Rahna là mẹ của tất cả chúng tôi, và bà ấy chính là người đã dựng nên ngọn núi Beor khi bà ấy đang bị 1 con rồng truy đuổi. Rahna, người đàn bà có Gilded Horns, bà ấy trả lời Maghara, và hỏi tại sao lại gọi bà ấy đến.”hãy làm cho tôi đẹp hơn, Horned Mother, để con có thể thu hút người đó đến với con.” Maghara nói. Và Rahna trả lòi rằng:” Con không cần xinh đẹp nữa, Maghara à. Con có cặp sừng đẹp, 1 mái tóc dài và tiếng nói rất hay rồi. Với những thứ đó, con có thể lấy người mà không ngu ngốc đến độ chỉ biết nhìn vào mặt con gái để đoán sự xinh đẹp.”và Maghara, quăng mình xuống đất và nói:” con sẽ không hạnh phúc trừ khi con có được người đó, Horned Mother. Làm ơn, hãy làm cho con đẹp hơn”Rahna, bà cười và nói” nếu ta làm như vậy, cô bé, con sẽ trả ơn ta như thế nào?”và Maghara trả lời:” con sẽ đưa cho bà bất cứ thứ gì.”
Rahna hài lòng với lời đề nghị của cô ấy và bà đã làm cho Maghara xinh đẹp. Maghara trở về làng và mọi người đều ngạc nhiên trước vẻ đẹp của cô ấy. với 1 khuôn mặt mới, Maghara trở thành người bạn bạn đời của chàng trai cô ấy muốn, và cô ấy có rất nhiều đứa con, bon họ sống hạnh phúc trong 7 năm sau đó. Rồi Rahna đến và nói: “Con đã có 7 năm hạnh phúc bên người con yêu, con có vui không?” và Maghara đáp: “thưa bà, con rất hạnh phúc.” Và Rahna nói: “Bây giờ hãy trả nợ cho ta nào.” bà ta nhìn xung quanh căn nhà bằng đá, dừng lại trên người con trai cả của cô ấy và nói: “Ta sẽ lấy hắn”. Maghara nài nỉ Người Đàn Bà Có Gilded Horns đừng mang con của cô ấy đi, nhưng Rahna không hề động lòng. Cuối cùng, Maghara lấy cây gậy của chồng mình, và đập vào người Rahna, nhưng cây gậy gãy tan trong tay cô ấy. Để trừng phạt, Rahna đã lấy đi sắc đẹp của Maghara, và mang con của Maghara đi về chổ ở của mình, nơi 4 ngọn gió cư ngụ. bà ta đặt tên đứa con của Maghara là Hegraz. Bà ta đã huấn luyện hắn thành 1 trong những chiến binh mạnh nhất từng đi trên mảnh đất này.Có thể rút ra được bài học từ Maghara rằng đừng bao giờ chống lại số phận, vì bạn sẽ mất đi những gì thân yêu nhất.
Eragon ngắm nhìn ánh sáng rực rỡ của mặt trăng lưỡi liềm đang xuất hiện trên đường chân trời phía đông. “Kể cho tôi cái gì đó về làng của anh đi”
“Kể cái gì?”
“Cái gì cũng được. tôi đã nhìn thấy hàng trăm ký ức khi tôi đi vào tư tưởng của anh, của Khagra, và của Otvek, nhưng I chỉ gợi lại được 1 ít , nó không hoàn hảo. tôi đang cố gắng phán đoán những gì tôi nhìn thấy được.”
“Có rất nhiều thứ tôi có thể nói với ngài” Garzhvog đáp. Đôi mắt hắn thoáng buồn, hắn xoay xở xỉa răng bằng tăm và nói tiếp: “chúng tôi lấy gỗ mới xẻ, khắc lên chúng mặt những con thú trên núi, rùi chúng tôi chôn chúng thẳng đứng trước cửa nhà để trừ tà ma, cô hồn. Thỉnh thoảng những cái hình đó dường như có sự sống. Khi ngài đi vào làng của chúng tôi, ngài có thể cảm nhận được những đôi mắt của bon chúng nhìn ngài…” khúc xương dừng lại trên tay của Urgal, rùi lại chuyển động tiếp tục. “Trước lối ra vào của mỗi lều, chúng tôi đều treo namna – 1 mảnh vải được căng rộng ra bằng bàn tay. Namna có màu sắc rực rỡ, và trên nền của mảnh vải người ta miêu tả lại lịch sử của gia đình sống trong túp lều đó. Chỉ có người dệt vải lớn tuổi nhất và lành nghề nhất mới được dệt thêm hay thay cái mới nếu mảnh vải bị hư hại…”
Khúc xương biến mất khỏi bàn tay Garzhvog”trong xuốt những tháng mùa đông, những dệt thảm bắt đầu công việc của mình. Cần ít nhất 5 năm để hoàn thành 1 cái thảm, vì vậy khi chiếc thảm được hoàn thành, người ta sẽ bít được trình độ của người dệt.”
“Tôi chưa từng nhìn thấy 1 ngôi làng nào của các anh cả.” Eragon nói “chắc là chúng được che giấu rất kĩ.”
“Che giấu kĩ và phòng thủ chắc chắn.chỉ 1 vài người nhìn thấy làng của chúng tôi còn sống để kể về nó.”
“Tập trung vào lời nói của Garzhvog, Eragon hỏi” anh học tiếng của chúng tôi như thế nào, Garzhvog?”
“Hay là có 1 người nào đó sống giữa các anh? Các anh có bắt giữ ai làm nô lệ không?”
Garzhvog đáp lại cái nhìn của Eragon không hề nao núng. “Chúng tôi không có nô lệ, Hỏa Kiếm. Tôi học được chúng trong tư tưởng của 1 người đàn ông tôi từng chiến đấu, và tôi chia sẻ vốn hiểu biết với mọi người trong bộ lạc.”
“Anh đã giết rất nhiều con người, phải không ?”
“Ngài cũng đã giết nhiều Urgals, Hỏa Kiếm. đó là lí do tại sao chúng ta vẫn sống đến ngày hôm nay, hoặc bộ lạc của tôi sẽ không sống sót.”
Eragon khoanh hai tay lại.
– Khi Brom và tôi theo dõi Ra’zac, chúng tôi đã băng qua Yazuac, ngôi làng kế sông Ninor. Chúng tôi đã tìm thấy tất cả dân làng chất đống ngay giữa làng, đã chết, với xác một em bé nằm ngay trên đỉnh của đống xác đó. Cảnh tượng đó là cảnh kinh khủng nhất mà tôi từng chứng kiến. Và đó là do Urgals đã giết họ.
– Trước khi tôi mọc sừng.
Garzhvog kể.
– Cha tôi đã cho tôi đến thăm một trong những ngôi làng của chúng tôi dọc theo rìa phía tây của núi Spine. Chúng tôi đã tìm thấy người dân tôi bị tra tấn, bị đốt cháy, và bị giết. Những con đực của Narda nhận thấy sự có mặt của chúng tôi, và họ đã đột kích ngôi làng với nhiều chiến sĩ. Không ai trong làng chạy thoát được… Đúng là chúng tôi thích chiến tranh nhiều hơn các chủng tộc khác, Hoả Kiếm, và điều đó làm chúng tôi suy sụp nhiều lần trước đây. Những con cái sẽ không thừa nhận một con đực chừng nào nó chứng minh được trong trận chiến và giết được ít nhất ba đối thủ. Và đó là niềm vui trong trận chiến hơn bất cứ niềm vui nào khác. Mặc dù chúng tôi thích sức mạnh của tay chúng tôi, nhưng không có nghĩa là chúng tôi không nhận thức được lỗi của mình. Nếu chủng tộc tôi không thể thay đổi, Galbatorix sẽ giết hết chúng tôi khi ông ta đánh bại phe Varden, và ngài và Nasuada sẽ giết chúng tôi nếu chúng tôi phản bội. Không phải sao, Hoả Kiếm?
Eragon giật giật cằm trong lúc gật đầu.
– Đúng thế.
– Cả hai phía đều không ổn, vậy thì, nhìn lại những lỗi lầm trong quá khứ. Nếu chúng tôi không thể nhận ra điều gì trong chủng tộc tôi đã làm, thì sẽ không bao giờ có được hoà bình giữa tộc người và Urgralgra.
– Chúng tôi sẽ phải đối xử với anh như thế nào, khi mà, nếu như chúng tôi đánh bại được Galbatorix và Nasuada cho chủng tộc anh đất riêng như anh đã đề nghị, và hai mươi năm tới, các thế hệ sau bắt đầu giết và cướp bóc để tìm bạn đời? Nếu anh biết lịch sử chúng tôi, Garzhvog, và anh biết điều đó sẽ luôn trong sử sách ngay cả khi Urgals ký hiệp ước hoà bình.
Với một tiếng thở dài, Garzhvog nói:
– Vậy thì chúng tôi sẽ hy vọng rằng vẫn còn Urgralgra bên kia biển và rằng chúng thông minh hơn chúng tôi, cho dù chúng tôi sẽ không còn ở mảnh đất này nữa.
Không ai nói thêm gì nữa trong đêm đó. Garzhvog cuộn mình lại và ngủ với cái đầu to nằm trên mặt đất, trong khi Eragon trùm kín chính nó trong cái áo khoác và ngồi tựa vào gốc cây, ngắm các ngôi sao chuyển động chầm chậm, trôi vào và ra khỏi giấc mơ của nó.
Vào cuối ngày hôm sau, họ đã tới điểm có thể nhìn thấy núi Beor. Lúc đầu, ngọn núi không có gì nhiều hơn sương mù bao phủ chân núi, nhưng tới xế chiều, đã bắt đầu có thể thấy được hình dáng ngọn núi, và Eragon đã có thể trông thấy dải tối quanh những cái cây che khuất căn cứ, và trên đó, từng dải rộng của tuyết và băng và cao hơn nữa, ngay đỉnh núi, màu xám, lộ ra đá, quá cao, không cây nào có thể mọc trên đó và bị tuyết phủ kín. Giống như lần đầu nó nhìn thấy, kích cỡ của núi Beor hoàn toàn áp đảo Eragon. Theo như bản năng của nó thì không có gì to lớn có thể tồn tại, và bây giờ nó biết mắt nó không lừa nó. Ngọn núi cao khoảng mười dặm, và có thể cao hơn.
Eragon và Garzhvog không dừng đêm đó mà tiếp tục chạy qua đêm đến tận sáng ngày hôm sau. Eragon dừng lại, dọc bờ suối, và ngắm cảnh trong vài phút im lặng đến kinh ngạc. Như phạm vi rộng lớn của núi Beor tương tự như hành trình gian khổ của Eragon từ Gil’ead đến Farthen Dûr với Murtagh, Saphira, và Arya. Nó nghĩ ngay cả khi tính luôn tất cả các nơi mà họ dừng lại sau khi vượt qua sa mạc Hadarac.
Ngày dài và đêm còn dài hơn trôi đi với sự chậm chạp khốn khổ cũng như một tốc độ đáng ngạc nhiên, vì từng giờ đồng hồ đều giống hệt như giờ cuối cùng, khiến cho Eragon thấy không chỉ cuộc thử thách này có vẻ không bao giờ chấm dứt, mà một phần lớn của nó hình như vẫn chưa hề trôi qua.
Khi nó với Garzhvog đến miệng khe nứt khổng lồ chia cắt dãy núi suốt nhiều dặm từ bắc tới nam, họ ngoặt sang phải và băng qua cái lạnh cùng những đỉnh núi lạnh nhạt. Đến Sông Răng Gấu – chảy ra từ thung lũng hẹp dẫn đến Farthen Dûr – họ lội qua dòng nước giá lạnh và tiếp tục hướng về phương bắc.
Đêm đó, trước khi phiêu lưu về phương đông để vào trong những ngọn núi, họ dựng trại bên một cái hồ nhỏ và thư giãn chân tay. Garzhvog giết một con hươu nữa bằng cái ná của gã, lần này là một con hươu đực, và cả hai ăn no nê.
Thỏa mãn được cơn đói, Eragon đang khom lưng vá lại một lỗ thủng trong chiếc giày của nó thì chợt nghe thấy một tiếng hú kỳ quái khiến huyết mạch nó đập dồn. Liếc nhìn khung cảnh tối thui xung quanh, nó kinh hoàng nhận ra bóng của một con thú khổng lồ đang nhảy quanh bờ rải đá cuội của cái hồ.
“Garzhvog,” Eragon thấp giọng, với tới chỗ cái túi của nó và rút kiếm.
Nhặt một hòn đá to cỡ nắm đấm từ mặt đất, gã Kull đặt nó vào cái túi da trên cái ná, rồi vươn thẳng người, gã há họng rống to vào trong đêm cho tới khi cả vùng đất vang dội lời thách thức của gã.
Con thú ngừng lại, rồi bước chậm rãi, đánh hơi mặt đất xung quanh. Khi nó bước vào vòng tròn sáng của ánh lửa, hơi thở Eragon nghẹn lại trong họng. Đứng trước mặt họ là một con sói lưng xám to ngang một con ngựa, với những cái răng nanh như những lưỡi kiếm cong và đôi mắt vàng rực theo sát từng cử động của họ. Bàn chân con sói có kích cỡ như những cái khiên.
Một con Shrrg! Eragon nghĩ.
Khi con sói khổng lồ đi vòng quanh trại, chuyển động gần như vô thanh bất chấp vóc dáng đồ sộ, Eragon nghĩ tới thần tiên và cách họ đương đầu với một con thú hoang, và bằng cổ ngữ, nó nói, “Người anh em Sói, chúng ta không có ý làm hại mi. Đêm nay đàn chúng ta chỉ nghỉ ngơi và không đi săn. Mi được chào mừng đến chia sẻ thức ăn và sự ấm áp trong hang ổ chúng ta cho tới sáng.” Con Shrrg ngừng lại, tai nó xoay ra trước trong lúc Eragon nói bằng cổ ngữ.
“Hỏa Kiếm, cậu làm cái gì thế?” Garzhvog gầm gừ.
“Đừng tấn công trừ khi nó tấn công.”
Con thú với đôi vai nặng nề từ từ bước vào chỗ cắm trại, chóp mũi ướt át khổng lồ không ngừng giật giật. Con sói đưa cái đầu bờm xờm của nó về phía đám lửa, dường như tò mò về ngọn lửa đang nhảy múa, rồi lại gần những mẩu thịt thừa và nội tạng vương vãi trên mặt đất chỗ Garzhvog đã làm thịt con hươu. Cúi xuống, con sói đớp lấy những miếng thịt lớn, rồi ngẩng lên và, không hề nhìn lại, bước vào bóng đêm sâu thẳm.
Eragon thả lỏng và tra kiếm vào bao. Garzhvog, ngược lại, vẫn đứng nguyên chỗ cũ, đôi môi co lại gầm gừ, quan sát và lắng nghe bất cứ điều gì bất thường từ bóng tối xung quanh.
Bình minh vừa ló dạng, Eragon và Garzhvog rời điểm cắm trại và chạy về phía đông, tiến vào thung lũng dẫn họ đến Núi Thardûr.
Khi họ đi dưới những cành cây của khu rừng rậm rạp canh gác vùng đất bên trong dãy núi, không khí trở nên mát hơn một cách đáng chú ý và đệm lá kim mềm mại trên mặt đất ôm lấy những bước chân của họ. Những cái cây cao lớn, tối tăm, hung dữ hiện ra lờ mờ bên trên họ dường như đang quan sát khi họ mở lối giữa những thân cây to và vòng qua những đám rễ xoắn vặn gồ lên từ mặt đất ẩm ướt, cao đến nửa thước, một thước, và thường là thước rưỡi. Những con sóc lớn màu đen vụt qua các cành cây, ríu rít một cách ồn ào. Một lớp rêu dày bao phủ những xác cây đổ. Những cây dương xỉ, những bụi mâm xôi và các loại cây xanh rậm rạp khác phát triển sum suê kế bên những cây nấm với mọi loại hình dạng, kích thước, và màu sắc.
Thế giới thu hẹp lại khi Eragon và Garzhvog đã hoàn toàn ở trong cái thung lũng dài. Những ngọn núi khổng lồ ép vào từ cả hai bên với tầm vóc nghẹt thở, và bầu trời là một dải màu thiên thanh xa xôi không thể với tới, bầu trời cao nhất mà Eragon từng thấy. Một vài đám mây mỏng lướt qua vai những ngọn núi.
Một giờ hay cỡ đó sau giữa trưa, Eragon và Garzhvog đi chậm lại khi một chuỗi những tiếng gầm khủng khiếp vang vọng giữa rừng cây. Eragon rút kiếm ra khỏi bao, và Garzhvog chộp lấy một hòn đá cuội nhẵn nhụi trên mặt đất và gắn vào cái túi trên cái ná của gã.
“Một con gấu hang,” Garzhvog nói. Một tiếng eng éc the thé giận dữ, nghe như tiếng kim loại nghiến lên kim loại, ngắt lời gã. “Hỏa Kiếm, chúng ta phải cẩn thận.”
Họ bước từng bước chậm rãi và nhanh chóng phát hiện ra những con thú cách đó khoảng trăm thước trên một sườn núi. Một bầy lợn lòi hung đỏ với những cái răng nanh dày khua nhặng xị, nháo nhác trong tiếng kêu hỗn loạn trước một khối khổng lồ có lông nâu bạc, móng vuốt cong như những cái móc, và những cái răng đớp táp chuyển động với tốc độ chết người. Ban đầu khoảng cách đánh lừa Eragon, nhưng rồi nó so sánh những con thú với những cái cây bên cạnh chúng và nhận ra mỗi con lợn lòi đều làm cho con Shrrg nhỏ đi còn con gấu thì to gần bằng cái nhà của nó ở Thung lũng Palancar. Bầy lợn lòi đã làm hai bên sườn con gấu nhuốm máu, nhưng điều đó hình như chỉ làm con thú thêm điên tiết. Đứng lên trên hai chân sau, con gấu rống lên và đập một con lợn lòi bằng một bàn chân khổng lồ, đánh văng con lợn sang một bên và xé toạc da nó. Con lợn lòi cố sức vùng dậy ba lần, và ba lần con gấu đều tung đòn vào nó, cho đến cuối cùng con lợn lòi đầu hàng và nằm im re. Khi con gấu cúi xuống ăn, đám lợn đang rống rít còn lại rút lui vào bên dưới những cái cây, hướng lên núi và tránh xa khỏi con gấu.
Kinh sợ vì sức mạnh của con gấu, Eragon đi theo Garzhvog khi gã Urgal từ từ băng ngang qua tầm nhìn của con gấu. Ngẩng cái mõm đỏ lòm của nó lên khỏi dạ dày con mồi, con gấu quan sát họ với đôi mắt nhỏ, tròn và sáng, rồi hình như quyết định họ không phải mối đe dọa với nó và tiếp tục bữa ăn.
“Ta nghĩ cả Saphira cũng không chắc hạ được một con quái như thế,” Eragon lẩm bẩm.
Garzhvog khẽ càu nhàu. “Nó biết phun lửa. Gấu thì không.”
Không ai trong bọn họ rời mắt khỏi con gấu cho đến khi những thân cây che khuất nó khỏi tầm nhìn, và kể cả khi đó họ vẫn sẵn sàng vũ khí, không biết liệu mình còn có thể đụng phải những hiểm nguy gì nữa.
Ngày hôm đó đã về chiều muộn khi họ nhận ra thêm một loại âm thanh khác: tiếng cười. Eragon và Garzhvog dừng lại, rồi Garzhvog giơ lên một ngón tay và, với vẻ lén lút đáng ngạc nhiên, bò xuyên qua một hàng cây, về phía tiếng cười. Đặt chân một cách thận trọng, Eragon đi cùng gã Kull, nín thở vì sợ hơi thở tiết lộ sự hiện diện của họ.
Nhìn qua một đám lá sơn thù du, Eragon thấy một con đường mòn ở dưới thung lũng, và cạnh con đường, ba đứa trẻ người lùn đang nô đùa, ném gậy vào nhau, vừa la hét vừa cười. Không thấy người lớn nào. Eragon lui lại một khoảng cách an toàn, thở ra, và quan sát bầu trời, phát hiện vài đám khói trắng, có lẽ ở xa thêm một dặm ngược lên thung lũng.
Một cành cây gãy khi Garzhvog ngồi xuống bên cạnh nó, để hai người ngang bằng nhau. Garzhvog nói, “Hỏa Kiếm, chúng ta chia tay tại đây.”
“Ngươi không đến Hang Bregan với ta?”
“Không. Nhiệm vụ của tôi là giữ an toàn cho cậu. Nếu tôi đi cùng, người lùn sẽ không tin tưởng cậu nữa. Núi Thardûr ở rất gần rồi, và tôi tin chắc sẽ không kẻ nào dám làm cậu bị thương trong khoảng từ đây đến đó đâu.”
Eragon xoa xoa gáy, nhìn tới lui giữa Garzhvog và làn khói ở phía đông. “Ngươi sẽ chạy thẳng về Varden à?”
Cười khẽ, Garzhvog nói, “Đúng, nhưng chắc không nhanh được như khi ta tới đây đâu.”
Không chắc phải nói sao, Eragon lấy mũi giày đẩy một đầu khúc cây đã mục, để lộ ra một cái tổ ấu trùng trắng đang ngọ nguậy trong cái đường hầm mà chúng mới đào. “Đừng để một con Shrrg hay gấu nào ăn thịt, được chứ? Nếu không ta sẽ phải truy lùng con thú và giết nó, mà ta thì không có thời gian cho vụ đó.”
Garzhvog ấn hai nắm đấm lên cái trán xương xẩu của gã. “Mong cho kẻ thù run sợ trước cậu, Hỏa Kiếm.” Đứng và quay người, Garzhvog bước đi xa khỏi Eragon. Khu rừng nhanh chóng che khuất hình thù to lớn của gã Kull.
Eragon hít đầy phổi khí núi trong lành, rồi mở đường xuyên qua lùm cây. Khi nó hiện ra từ những bụi dương xỉ vả sơn thù du, đám trẻ lùn bất động, vẻ cảnh giác lộ ra trên những khuôn mặt tròn trĩnh. Giữ hai tay hai bên, Eragon nói, “Ta là Eragon Khắc-tinh-của-Tà-thần, Con trai của Không Ai Cả. Ta đang tìm Orik, con trai của Thrifk, ở Hang Bregan. Các bạn có thể đưa ta tới chỗ ông ấy chứ?”
Đám trẻ không đáp, và Eragon nhận ra chúng không hiểu tiếng của nó. “Ta là một Kỵ sĩ Rồng,” nó nói, chậm rãi và nhấn mạnh từng từ. “Eka eddyr aí Shur’tugal…Shur’tugal…Argetlam.”
Tới đó, mắt đám trẻ bừng sáng, và miệng chúng vẽ ra hình tròn kinh ngạc. “Argetlam!” chúng kêu lên. “Argetlam!” Và chúng chạy tới, nhào vào Eragon, quàng những cánh tay ngắn ngủn vào chân nó và túm quần áo nó, không ngừng hò hét hớn hở. Eragon nhìn xuống đám trẻ, cảm thấy một nụ cười ngốc nghếch đang nở rộng trên mặt mình. Lũ trẻ túm tay nó, và nó để cho chúng kéo mình đi xuống con đường mòn. Mặc dù nó chẳng hiểu gì, đám trẻ cứ nói liên hồi bằng tiếng Người lùn, kể cho nó những điều nó không biết, nhưng nó vui vẻ lắng nghe cuộc chuyện trò của chúng.
Khi một đứa trong đám trẻ – một đứa con gái, nó nghĩ – đưa tay về phía nó, nó nhấc cô bé lên và đặt lên vai mình, nhăn nhó khi cô bé túm lấy một nắm tóc nó. Cô bé cười, giọng cao và du dương, khiến Eragon lại cười theo. Vậy là, được hộ tống và tháp tùng, Eragon tìm đường đến Núi Thardûr và từ đó đến Hang Bregan, đến chỗ nghĩa huynh của nó, Orik.