Nản chí, Eragon lao ra khỏi phòng hội nghị tròn được giấu sâu dưới trung tâm của Tronjheim. Cánh cửa bằng gỗ cây sồi đóng lại đằng sau nó với một tiếng vang ầm.
Eragon đứng chống tay lên hông ngay giữa hành lang vòng cung bên ngoài phòng họp và nhìn chằm chằm xuống sàn đá, nơi được khảm đá mã não và ngọc bích hình chữ nhật. Từ khi nó và Orik đến Tronjheim, cách đây ba ngày, thì những việc mà mười ba tộc trưởng của các bộ tộc người lùn đã làm không có gì khác ngoài việc tranh cãi về vấn đề mà Eragon nghĩ là không cần thiết, chẳng hạn như có nhiều bộ tộc đòi quyền lợi cho người bị thương của họ ngay giữa cuộc tranh cãi. Khi nghe những cuộc tranh luận tối nghĩa của các tộc trưởng đưa ra những quan điểm pháp lý của họ, Eragon cảm thấy như muốn la to lên rằng họ đang bị mù bởi cho rằng số phận bất hạnh của toàn Alagaësia là do chính sách cai trị của Galbatorix trừ khi họ đặt mối quan tâm nhỏ nhen ít kỷ của họ qua một bên và chọn người đứng đầu mà không trì hoãn nữa.
Vẫn đang chìm đắm trong suy nghĩ, Eragon chậm bước xuống hành lang, để bốn vệ sĩ theo sau nó – như họ đã làm dù cho nó có ở bất cứ đâu – cũng như trong tộc người lùn, nhiều người chào nó với nhiều cách dành cho “Bàn-tay-bạc”. Người mà nó không mong muốn nhất là Íorûnn, Eragon nghĩ vậy. Một phụ nữ người lùn là tộc trưởng của Dûrgrimst Vrenshrrgn, một thị tộc hùng mạnh, hiếu chiến, và bà ta đã làm rõ, từ khi cuộc họp bắt đầu, rằng bà ta dự tính chiếm lấy ngai vàng cho riêng mình. Chỉ có một thị tộc khác, Urzhad, đã cởi mở thừa nhận họ theo phe bà ta, nhưng như những gì bà ta đã có dịp thể hiện trong cuộc họp giữa các tộc trưởng thì bà ta quá thông minh, xảo trá, và có thể giải quyết hầu hết các tình huống. Bà ta có thể là một nữ hoàng xuất sắc, Eragon thừa nhận, nhưng bà ta quá xảo quyệt, không thể biết được bà ta có hỗ trợ Varden hay không một khi bà ta lên ngôi. Nó tự thưởng cho mình một nụ cười nhăn nhó. Khi nói chuyện với Íorûnn, bà ta luôn cảnh giác nó. Người lùn coi bà ta là một biểu tượng sắc đẹp, và ngay cả nếu theo các tiêu chuẩn của con người, thì bà ta gây một ấn tượng rất mạnh. Bên cạnh đó, bà ta dường như làm mê hoặc Eragon khiến nó không thể không để ý. Trong tất cả các cuộc tranh luận, bà ta cứ luôn đưa ra lời ám chỉ về lịch sử và thần thoại của bộ tộc người lùn, điều mà Eragon không hiểu lắm nhưng dường như để Orik và các người lùn khác phân tâm không dừng lại được.
Thêm vào với Íorûnn, hai tộc trưởng khác đã nổi lên như là địch thủ của nhau cho ngôi vua. Gannel, tộc trưởng của Quan Dûrgrimst, và Nado, tộc trưởng của Dûrgrimst Knurlcarathn. Như người quản lý của các tôn giáo người lùn, các Quan có ảnh hưởng rất lớn giữa các thị tộc của họ, nhưng cho đến nay, Gannel đã đạt được sự hỗ trợ của hai thị tộc khác, Dûrgrimst Ragni Hefthyn và Dûrgrimst Ebardac – thị tộc chỉ chủ yếu dành riêng cho các học giả nghiên cứu. Ngược lại, Nado đã giả tạo một liên minh lớn hơn, bao gồm các thị tộc Feldûnost, Fanghur, và Az Sweldn rak Anhûin.
Ngược lại với Íorûnn dường như muốn cái ngai chỉ dành cho cái quyền lực mà bà ta có ý định đạt được sau đó, Gannel, vốn đã không có vẻ thù nghịch với Varden – mặc dù không phải là ông ta thân thiện với họ – Nado thì thẳng thắn và kịch liệt chống lại bất kỳ những dính dáng có sự hiện diện của Eragon, Nasuada, Đế Quốc, Galbatorix, Nữ Hoàng Islanzadí, hoặc, cho đến nay Eragon có thể nói, bất kỳ sinh vật nào bên ngoài Núi Beor. Knurlcarathn là thị tộc xây dựng và ở nam giới cũng như về nhu cầu vật chất, họ không có sự cân bằng, vì mỗi thị tộc khác đều phụ thuộc vào chuyên môn của họ cho việc đào hang hay xây dựng nơi ở, và thậm chí ngay cả Ingeitum cũng cần họ khai thác các mỏ quặng cho lò rèn của mình. Và nếu Nado giành được ngôi vua thì sẽ có biến động, Eragon biết rằng nhiều người trong số ít tộc trưởng sẽ chịu chia sẻ quan điểm của ông ta, sẽ nhảy lên và chiếm lấy ngôi của ông ta. Az Sweldn rak Anhûin, là một ví dụ điển hình như là Galbatorix và Forsworn, đã gần như xoá sổ trong thời gian của cuộc nổi dậy – đã công khai rằng sẽ lấy máu của kẻ địch là Eragon trong thời gian nó ghé thăm thành phố Tarnag và trong mỗi hành động của họ tại cuộc họp của các thị tộc, đã chứng tỏ lòng căm thù vẫn không nguôi đối với Eragon, Saphira, và mọi thứ cần làm với con rồng và người cưỡi chúng. Họ đã tỏ ra khó chịu khi để Eragon tham dự tại cuộc họp của các tộc trưởng, mặc dù nó đã được pháp luật của người lùn hoàn toàn cho phép, và được phép tham dự cuộc họp này, do đó không cần phải trì hoãn các nghi thức những sáu giờ.
Một trong những ngày này, Eragon nghĩ, mình sẽ phải tìm cách để tạo hoà bình với họ. Nếu không mình sẽ phải hoàn thành những gì Galbatorix gây ra. Mình từ chối tiếp tục sống trong sự sợ hãi về Az Sweldn rak Anhûin. Một lần nữa, như nó đã thường xuyên làm vậy trong quá khứ cách đây vài giờ, nó chờ hồi âm của Saphira, và khi không nhận được, một cảm giác đau nhói quen thuộc như đâm vào tim nó.
Liên minh giữa các thị tộc vững chắc đến đâu, tuy nhiên, đó là câu hỏi không chắc chắn. Orik, Íorûnn, Gannel cũng như Nado, tất cả đều không có đủ ủng hộ để thắng cuộc bình chọn người được bầu chọn lên ngôi, vì thế tất cả họ đều tích cực tham gia vào việc giữ lại lòng ủng hộ của các thị tộc, những người mà đã hứa sẽ giúp họ trong khi đó, họ lại đang đâm lén sau lưng kẻ địch. Mặc cho tầm quan trọng của vấn đề, Eragon cho rằng việc đó cực kỳ chán ngắt và bực bội.
Dựa trên những lời giải thích của Orik và theo như Eragon hiểu thì trước khi các tộc trưởng muốn đưa ra một điều lệ, họ phải thông qua bỏ phiếu, cho dù muốn hay không thì họ phải chuẩn bị sẵn sàng để chọn ra một vị vua hay nữ hoàng và việc bầu cử sơ bộ phải được bỏ vào ít nhất chín phiếu bằng chính năng lực của họ để được thông qua. Đến bây giờ, không một tộc trưởng nào, kể cả Orik, cảm thấy đủ an toàn ở vị trí của họ để đưa ra vấn đề vào đầu và tiếp tục đến cuối cuộc bầu cử. Đó là, như Orik đã nói, trong vài trường hợp, được biết như là kéo theo một khoảng thời gian dài bực bội.
Khi đã cân nhắc về tình trạng đó xong, Eragon đi thơ thẩn qua nhiều ngõ ngách dưới Tronjheim cho tới khi nó tìm lại được chính nó trong cái phòng khô và đầy bụi bặm, với năm cung vòm đen trên một mặt và một bức phù điêu được khắc với một con gấu cao hai mươi feet đang gầm gừ ở mặt còn lại. Con gấu có răng vàng và tròn, mắt được khảm màu hồng ngọc.
– Chúng ta đang ở đâu vậy, Kvîstor?
Eragon hỏi, nhìn qua những vệ sĩ. Tiếng nói của nó vang khắp phòng. Eragon có thể cảm thấy được tâm trí của nhiều người lùn với cấp độ trên họ, nhưng nó không biết làm sao để tiếp cận.
Người vệ sĩ dẫn đầu, một người lùn khá trẻ không hơn sáu mươi, bước lên.
– Các phòng này đã được dọn cách đây nhiều thiên niên kỷ bởi Tộc trưởng Korgan, khi Tronjheim đang xây dựng. Chúng tôi đã không sử dụng chúng nhiều từ đó, ngoại trừ khi toàn bộ tập hợp ở Farthen Dûr.
Eragon gật đầu:
– Có thể đưa tôi quay trở lên phía trên?
– Tất nhiên, thưa Bàn-Tay-Bạc.
Một vài phút đi bộ đưa họ lên một cầu thang rộng không sâu lắm, với kích cỡ bước chân của người lùn, lên khỏi mặt đất đến một hành lang nào đó nằm ở phía tây nam của thành Tronjheim. Từ đó, Kvîstor hướng dẫn Eragon vào hành lang phía nam khoảng chừng bốn dặm dài, chia Tronjheim dọc theo xung quanh điểm chính giữa.
Đó cũng là cái hành lang mà qua đó Eragon và Saphira đã lần đầu tiên bước vào Tronjheim cách đây vài tháng trước, và Eragon đi xuống, hướng về trung tâm của thành phố núi, với một cảm giác lạ của lòng hoài cổ. Nó cảm thấy như đã già đi nhiều năm tuổi.
Đại lộ số bốn mươi, một đám đông người lùn trong nhiều bộ tộc khác nhau. Hầu hết trong số họ nhận ra Eragon, nó chắc chắn thế, nhưng không ai chào nó, điều mà nó rất cảm ơn, vì điều đó cứu nó khỏi các nỗ lực phải trả lại nhiều hơn là các lời chào.
Eragon gần như hoá đá khi trông thấy một nhóm người của tộc Az Sweldn rak Anhûin băng qua hành lang. Một trong số họ quay lại nhìn nó, mặt của họ bị che khuất sau mạng che màu tím, cái mà họ luôn đeo khi đi ra ngoài. Người lùn đi cuối cùng trong đó phỉ nhổ ngay trước mặt Eragon trước khi đi nhập vào dòng người và ra khỏi hành lang cùng với anh em của hắn.
“Nếu Saphira ở đây, chúng sẽ không dám xấc láo như thế”, Eragon nghĩ.
Nửa giờ sau, nó đến khúc cuối hành lang tráng lệ, và mặc dù nó đã đi nhiều lần trước đây nhưng một cảm giác của sự sợ hãi và thắc mắc bao trùm lấy nó như khi nó đi giữa các cột mã não đen có ngọn màu vàng đá zircon với kích thước gấp ba lần của một người. Nó đi vào phòng họp tròn ngay giữa Tronjheim.
Phòng họp rộng khoảng một ngàn feet, với một tầng khắc đá carnelian bóng loáng với một cái búa, bao quanh là mười hai biểu tượng, là gia huy của thị tộc Dûrgrimst Ingeitum và của vị vua người lùn đầu tiên, Korgan, người đã phát hiện ra Farthen Dûr trong khi đào mỏ vàng. Đối diện với Eragon và cũng như phía bên kia là ngõ ra vào của ba đại sảnh dẫn xuyên qua thành phố núi. Phòng hội nghị không có nóc nhưng dẫn lên phía trên cùng của Tronjheim, khoảng một dặm. Đó là nơi dành cho rồng khi Eragon và Saphira đã từng ở cho đến khi Arya làm vỡ ngôi sao Sapphire, và rồi bầu trời: một màu xanh sáng xa xăm có vẻ không thể tưởng tượng được, bao lấy miệng thành phố núi Farthen Dûr cao trên mười dặm, để che khuất Tronjheim khỏi tầm nhìn của thế giới bên ngoài.
Chỉ có một số lượng ánh sáng vừa đủ chiếu vào Tronjheim. Thành phố Chạng Vạng Vĩnh Cửu, các thần tiên gọi như vậy. Bởi chỉ một vài tia nắng mặt trời có thể lọt vô được thành-phố-núi, ngoại trừ một chút tia nắng chói loá mắt nửa giờ trước và sau buổi trưa khi nắng hè lên cao. Người lùn thắp sáng bằng nhiều các lồng đèn không có lửa. Hàng ngàn trong số đó soi sáng phòng hội nghị. Một cái lồng đèn treo ở ngoài trên từng cây cột của mái vòm cong mà mỗi tầng của thành-phố-núi đều có, và thậm chí nhiều đèn hơn được gắn vào nhiều mái vòm, tạo thành lối vào cho các phòng xa lạ, cũng như con đường của Vol Turin, Cầu Thang Vô Tận, cái mà xoắn quanh phòng hội nghị từ đỉnh tới đáy. Hiệu quả cực kỳ cách điệu lẫn đẹp mắt. Các lồng đèn có nhiều màu sắc khác nhau, làm cho sự xuất hiện của nó như là bên trong phòng hội nghị như được điểm thêm với nhiều viên đá quý rực rỡ.
Vẻ lộng lẫy của nó, tuy nhiên, lu mờ bên cạnh vẻ đẹp lộng lẫy của một viên đá quý thật sự, viên đá quý lớn nhất trong tất cả: Isidar Mithrim. Trên sàn nhà của phòng họp, các người lùn đã xây dựng một cái giàn giáo gỗ có đường kính khoảng sáu mươi mét, và phía bên trong của hàng rào gỗ sồi tươi, chúng là, từng mảnh quý giá kề nhau, ráp lại các mảnh vỡ của Khối Ngọc Sao Hoa với một cách cực kỳ cẩn thận và tinh vi . Các mảnh chưa tìm ra chỗ để ráp lại thì được lưu giữ trong các hộp đang mở với miếng lót bằng len phía trong, mỗi hộp được dán nhãn với một dòng chữ cổ khẳng khiu. Cái hộp được mở đầy ra ở mặt phía Tây của phòng họp rộng lớn. Có lẽ ba trăm người lùn ngồi quanh, chăm chú vào công việc của họ trong lúc họ tìm chỗ để gắn các mảnh vỡ phù hợp vào nhau để thành một khối. Nhóm khác hối hả chung quanh giàn giáo, giữ cho các mảnh đá quý trong vòng, như cũng như xây dựng thêm các cấu trúc.
Eragon quan sát chúng trong vài phút, rồi thả bộ qua khu lầu nơi mà Durza đã tàn phá khi hắn và lũ chiến binh Urgal của hắn xâm nhập vào Tronjheim từ đường hầm phía dưới. Dùng mũi giầy, Eragon đá cục đá phía trước. Không còn một vết tích hư hại mà Durza gây ra. Người lùn đã xoá sạch các vết tích còn lại của trận chiến Farthen Dûr, mặc dù Eragon hy vọng rằng họ sẽ để lại làm kỷ niệm, cho thế hệ sau không bao giờ quên là máu của nhiều người lùn và Varden đã đổ xuống trong quá trình đấu tranh chống lại Galbatorix.
Khi Eragon đi lại giàn giáo, nó gật đầu chào Skeg, người đang đứng trên nền đá nhìn Khối Ngọc Sao Hoa. Eragon đã gặp người lùn gầy, nhanh nhẹn này trước đây. Skeg là thành viên của Dûrgrimst Gedthrall, và đã được Vua Hrothgar tin tưởng giao cho nhiệm vụ phục hồi kho báu quý giá nhất của người lùn.
Skeg ra hiệu cho Eragon leo lên trên nền đá. Một khung cảnh đầy đá quý, hình chóp nhọn, lấp lánh, cạnh mỏng như giấy, bề mặt gợn sóng làm cho Eragon thấy giống như nó kéo chính nó lên trên tấm ván thô sơ. Phía trên của Khối Ngọc Sao Hoa nhắc nó nhớ đến băng trên sông Anora ở thung lũng Palancar vào cuối mùa đông, khi mà băng vừa tan vừa đông lại nhiều lần và rất nguy hiểm khi đi qua, có nhiều cú va mạnh và băng nhấp nhô qua lại khi nhiệt độ lên cao. Thay vì chỉ có màu xanh biển, trắng, hay là trong suốt thì những mảnh còn lại của Khối Ngọc Sao Hoa lại mềm, hồng hồng, nhìn được thông qua các vết nâu cam.
– Việc như thế nào rồi?
Eragon hỏi.
Skeg nhún vai và khua tay trong không khí như hai cánh bướm.
– Nó vẫn như thế, thưa Bàn Tay Bạc. Ngài không thể vội vàng để hoàn thành.
– Đối với tôi thì ông đang tiến hành nhanh tiến trình.
Với một ngón trỏ xương xẩu, Skeg giơ tay lên, chùi chùi cái mũi rộng và tẹt.
– Phần trên của Isidar Mithrim – Khối Ngọc Sao Hoa, những gì bây giờ ở phía dưới, Arya đã làm vỡ nó ra thành nhiều mảng lớn, nên dễ gắn lại với nhau. Phần dưới của Khối Ngọc Sao Hoa, tuy nhiên, những gì hiện ở phía trên …
Skeg lắc đầu, nhăn mặt đau buồn.
– Do ảnh hưởng của vụ vỡ, tất cả các phần ngược lại với bề mặt của khối ngọc, bị đẩy ra do Arya và rồng Saphira, hướng xuống phía ngài và Tim Đen… nó đã vỡ hoa hồng phía trong thành từng miếng nhỏ hơn bao giờ hết. Và hoa hồng, Bàn-Tay-Bạc à, hoa hồng là biểu tượng của viên đá. Nó là phần phức tạp nhất, phần đẹp nhất của Khối Ngọc Sao Hoa. Và giờ nó nằm ở hầu hết các phần. Trừ khi chúng tôi có thể ráp lại hết, ở mọi nơi nó lẫn vào, chúng tôi có thể đưa viên đá cho các thợ kim hoàn và họ mài nhẵn thành vòng tròn cho mẹ của chúng tôi.
Các từ Skeg nói ra như nước tràn bờ. Ông ta la bằng ngôn ngữ người lùn vào người đang mang cái hộp qua hành lang, sau đó giật giật râu trắng của ông và hỏi:
– Ngài đã bao giờ nghe kể lại chưa, Bàn-Tay-Bạc, câu chuyện kể về Khối Ngọc Sao Hoa được khắc ra, trong thời đại của Herran?
Eragon ngập ngừng, nhớ lại bài học lịch sử ở Ellesméra.
– Tôi biết nó được khắc bởi Dûrok.
– Đúng thế.
Skeg nói:
– Đó là Dûrok Ornthrond – Mắt Sáng, như ngài nói theo ngôn ngữ chúng tôi. Không phải chính ông ta là người phát hiện ra Khối Ngọc Sao Hoa, nhưng nó được ông ta phát hiện ra từ những hòn đá xung quanh, ông ta là người khắc ra nó, và cũng là người làm đẹp cho nó. Năm mươi năm, ông ta dùng hết thời gian để làm ra Ngôi Sao Hoa. Viên đá mê hoặc ông hơn bất cứ thứ gì khác. Mỗi đêm, ông ta lúi cúi ngồi nhìn Khối Ngọc Sao Hoa đến khi trời sắp sáng, như ông ta đã xác định rằng Khối Ngọc Sao Hoa không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật, mà còn liên kết tâm hồn của tất cả những ai cầu nguyện với nó và nó sẽ cho người đó tìm được một chỗ trong bàn của các vị thần. Lòng tận tâm của ông ta là như vậy, trong ba mươi năm thứ hai của ông, khi bà vợ nói với ông ta rằng ông phải chia sẻ gánh nặng với người học việc hoặc bà ta sẽ rời khỏi nhà, Dûrok không nói lời nào nhưng xoay vai lại và típ tục làm cánh hoa như ông ta đang làm một năm trước. Dûrok típ tục làm Khối Ngọc Sao Hoa cho tới khi ông ta hài lòng với tất cả các đường thẳng và cong. Sau đó ông mặc một bộ đồ trang nhã, bước lại Khối Ngọc Sao Hoa và nói: “Gûntera, hãy bảo vệ tôi; tất cả đã xong”, và rồi ngã chết trên sàn.
Skeg đập lên ngực mình, tạo ra một tiếng đập mạnh.
– Trái tim của ông ta đã ra, cho cái gì nữa mà ông ấy phải sống? … Đó là những gì chúng tôi đang khôi phục lại, Bàn Tay Bạc: năm mươi bảy năm của việc không ngừng cố gắng bởi một trong những nghệ sĩ của tộc chúng tôi đã được biết. Trừ khi chúng tôi có thể đặt Khối Ngọc Sao Hoa trở lại chính xác ban đầu, chúng tôi sẽ phải hoàn thành những gì Dûrok đã làm, cho tất cả những ai chưa từng nhìn thấy Khối Ngọc Sao Hoa.
Nắm chặt bàn tay phải của mình, Skeg thình lình đập xuống đùi để nhấn mạnh từng từ của mình.
Eragon tựa lên lan can cao tới hông ở phía trước nó và theo dõi năm người lùn phía đối diện của viên đá đang treo thấp người lùn thứ sáu, người đang buộc chặt trong sợi dây, cho tới khi anh ta treo người từng tý một lên phía trên cạnh nhọn của viên đá vỡ Sapphire. Thò tay vào trong, người lùn đang treo lơ lửng tháo từng mảnh nhỏ của Khối Ngọc Sao Hoa từ cái ví da và túm lấy cái miếng vỡ với cái kiềm nhỏ, vừa đủ để đặt vào phía trong của khối ngọc.
– Nếu như lễ đăng quang được tổ chức sau hôm này ba ngày, ông có thể khôi phục Khối Ngọc Sao Hoa trước lúc đó không?
Eragon hỏi.
Skeg gõ gõ cái lan can với mười ngón tay của ông ta, tạo ra một nhịp điệu mà Eragon không thể nhận ra là điệu gì, ông lùn nói:
– Chúng tôi sẽ không vội vàng khôi phục Khối Ngọc Sao Hoa nếu như không phải con rồng của ngài đề nghị giúp đỡ. Việc hấp tấp vội vàng xa lạ với chúng tôi, Bàn-Tay-Bạc à. Nó không phải là bản chất của tộc chúng tôi, đó là của tộc người, vội vàng như vậy thì giống loài kiến khích động. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ làm hết mình để Khối Ngọc Sao Hoa sẵn sàng vào thời điểm lễ đăng quang. Nếu như ngài cần trong ba ngày kể từ bây giờ… cũng được, tôi không nên quá hy vọng về tiến trình chúng tôi đang làm. Nhưng nếu như được thì trong tuần sau, tôi nghĩ là chúng tôi sẽ hoàn tất.
Eragon cảm ơn Skeg vì dự đoán của ông ta, sau đó nó đi khỏi. Với những người bảo vệ theo sau nó, Eragon đi tới một trong những phòng ăn ở thành-phố-núi, một phòng dài, thấp với nhiều bàn đá sắp xếp theo hàng dài một bên, và nhiều người lùn đang bận về cái lò đá phía bên kia.
Ở đây Eragon ăn bánh mì, cá có thịt trắng mà người lùn bắt ở dưới hồ, nấm, và một số loại khoai nghiền nhừ mà nó đã ăn trước đây ở Tronjheim nhưng chưa biết nguồn gốc mà nó giờ mới biết. Trước khi nó bắt đầu ăn, thế nhưng, nó cẩn thận kiểm ra thức ăn coi có độc hay không, bằng cách sử dụng phép mà Oromis đã dạy nó.
Khi Eragon ăn nốt mẩu bánh mì cuối cùng với, uống một chút bia vào buổi sáng, Orik và khoảng mười chiến binh cùng bộ tộc đi vào phòng ăn. Các chiến binh ngồi tại bàn của họ, nơi mà họ có thể quan sát cả hai cổng ra vào, trong khi Orik tham gia với Eragon, đặt mình ngồi vào bàn phía đối diện. Anh ta đặt khuỷu tay lên bàn và để mặt lên tay.
Eragon thi triển một vài phép để ngăn ai đó nghe lén, rồi hỏi:
– Có phải chúng ta vừa trải qua một cuộc thất bại khác?
– Không, không có cuộc thất bại nào hết. Chỉ có những cuộc bàn cãi trong bực bội.
– Tôi đã nhận thấy.
– Và mọi người thì nhận thấy tâm trạng thất vọng của cậu.
Orik nói.
– Cậu phải kiểm soát mình tốt hơn về sau, Eragon à. Để lộ ra điểm yếu cho đối thủ của cậu không có gì hơn là giúp cho họ. Tôi –
Orik đột nhiên im lặng khi một người lùn bệ vệ đi lạch bạch và đặt dĩa đồ nóng hổi trước mặt anh ta.
Eragon cau mày nhìn góc bàn.
– Nhưng chẳng phải anh là ứng cử viên tốt nhất cho ngôi vua? Chúng ta có tiến thêm được bước nào với tất cả những chuyện tầm phào lê thê này không?
Orik giơ một ngón tay lên trong khi nhai cái miệng đầy bánh mì.
– Chúng ta đã đạt được rất nhiều. Đừng có ủ rũ thế! Sau khi cậu đi, Havard đã đồng ý giảm thuế đánh vào giá muối của Dûrgrimst Fanghur bán cho Ingeitum, đổi lại trong mùa hè, họ có thể vào đường hầm của chúng ta tới Nalsvrid-mérna, để họ có thể săn hươu đỏ tụ tập quanh hồ trong những tháng ấm áp của năm. Cậu nên thấy Nado nghiến răng thế nào khi Havard chấp nhận lời đề nghị của tôi.
– Chết tiệt!
Eragon nhổ nước bọt.
– Thuế, hươu – việc đó có ảnh hưởng gì tới người lãnh đạo thành công như Hrothgar? Thành thật với tôi đi, Orik. Vị trí của anh như thế nào so với những tộc trưởng khác? Và việc này còn kéo dài tới chừng nào nữa? Với mỗi ngày qua đi, nó càng khiến cho Đế Quốc sẽ phát hiện ra trò lừa này và Galbatorix sẽ tấn công Varden khi tôi không có đó để bảo vệ khỏi Murtagh và Thorn.
Orik chùi miệng của mình vào một góc khăn trải bàn.
– Vị trí của tôi ảnh hưởng vừa đủ. Không có các tộc trưởng nào có đủ hỗ trợ để kêu gọi biểu quyết, nhưng Nado và tôi có nhóm người ủng hộ tốt nhất. Nếu một trong hai giành được ủng hộ của hai hoặc ba bộ tộc khác, thế cân bằng sẽ nhanh chóng thuộc về người đó. Havard đang dao động rồi. Cho nên việc này sẽ không mất quá nhiều công khích lệ, tôi nghĩ, để thuyết phục ông ta vào chung phe với ta. Tối nay chúng ta sẽ ăn bánh mì với ông ta, và tôi sẽ làm những gì tôi có thể để thu xếp việc đó.
Orik nhai ngấu nghiến miếng nấm khô, rồi nói:
– Khi cuộc họp giữa các thị tộc kết thúc, có thể sau đó một tuần nếu chúng ta may mắn, và có lẽ hai nếu không.
Eragon lầm bầm chửi rủa. Nó quá căng thẳng, bụng của nó sôi ầm ầm và đe doạ sẽ loại bỏ miếng thịt nó vừa ăn. Chồm qua bàn, Orik nắm lấy cổ tay Eragon.
– Không có gì mà cậu và tôi có thể làm hơn nữa để đẩy nhanh quyết định của cuộc họp các thị tộc, do đó đừng để việc đó làm cậu lo nữa. Lo lắng về những gì cậu có thể thay đổi, và để phần còn lại theo cách của nó, hiểu chứ?
Anh ta thả tay Eragon ra.
Eragon thở nhẹ ra và chống cánh tay lên bàn.
– Tôi biết. Nó chỉ là chúng ta có quá ít thời gian, và nếu thất bại thì…
– Việc gì tới sẽ tới.
Orik nói. Anh ta cười nhưng mắt anh ta buồn và trống rỗng.
– Không ai có thể thoát được sự sắp đặt của số phận.
– Anh không thể chiếm cái ngai bằng vũ lực ư? Tôi biết anh không có nhiều quân ở Tronjheim, nhưng với sự hộ thuẫn của tôi, ai có thể chống lại anh?
Orik dừng con dao ở giữa cái dĩa và miệng mình, rồi lắc đầu, tiếp tục ăn.Vừa nhai nhồm nhoàm, anh ta vừa nói:
– Như thế sẽ chỉ tai hại thêm.
– Tại sao?
– Cần tôi phải giải thích ư? Toàn bộ chủng tộc tôi sẽ chống lại chúng ta, và thay vì kiểm soát được quốc gia, tôi sẽ thừa kế chỉ có hư danh. Nếu họ chống lại, tôi sẽ không đặt cược dù chỉ một thanh kiếm gãy là chúng ta sẽ không sống nổi trong một năm.
– À!
Orik không nói thêm gì nữa đến khi thức ăn trên đĩa anh ta sạch bách. Sau đó, anh ta uống một ngụm bia, và tiếp tục cuộc trò chuyện:
– Chúng ta đang ở thế cân bằng trên một đường núi lồng lộng gió với dốc đứng cao một dặm ở cả hai đầu. Nhiều bộ tộc trong chúng tôi ghét và sợ Kỵ Sĩ Rồng bởi những tội ác mà Galbatorix, và Lũ Phản đồ gây ra, và giờ là Murtagh đã cam kết chống lại chúng tôi. Và nhiều người trong số họ lo sợ thế giới bên ngoài các ngọn núi, đường hầm và hang mà chúng tôi ẩn nấp.
Orik nhìn xung quanh bàn và nói tiếp:
– Nado và Az Sweldn rak Anhûin chỉ làm tình hình thêm xấu đi. Họ lợi dụng nỗi lo sợ của mọi người để chống lại cậu, Varden, và Vua Orrin… Az Sweldn rak Anhûin chỉ là bản sao thu nhỏ của những gì chúng ta phải vượt qua nếu tôi lên làm vua. Bằng cách nào đó, chúng ta phải tìm ra cách xoa dịu mối quan tâm của họ, và của những người như họ, thậm chí nếu cho tôi làm vua, tôi sẽ phải cung cấp cho họ nghe những điều đúng sự thật nếu tôi muốn duy trì được sự hỗ trợ của các bộ tộc. Vua hay Nữ hoàng người lùn luôn phải khoan nhượng giữa các thị tộc, cho dù họ là người cầm quyền mạnh đến thế nào đi nữa, cũng như khi các tộc trưởng có ủng hộ của các gia đình trong thị tộc của họ.
Nghiêng đầu, Orik uống cạn cốc bia của mình, rồi đặt xuống với một tiếng cạch.
– Có gì tôi có thể làm không, bất cứ tập quán hay nghi lễ nào của tộc anh mà tôi có thể thực hiện, điều gì đó sẽ làm Vermûnd và những người của ông ta nguôi giận?
Eragon hỏi, tên của người lãnh đạo hiện thời của Az Sweldn rak Anhûin.
– Phải có cái gì để tôi có thể làm dịu lại sự nghi ngờ và đem đến một kết thúc cho mối thù này.
Orik bật cười và đứng dậy khỏi bàn:
– Cậu có thể đi chết.
Sáng sớm hôm sau, Eragon ngồi tựa lưng lại bức tường cong trong một phòng tròn, sâu dưới trung tâm của Tronjheim, cùng với một số nhóm chiến binh, cố vấn, phục vụ, và thành viên các gia đình của các tộc trưởng, những người đủ tư cách để tham dự cuộc họp các thị tộc. Các lãnh đạo thị tộc thì ngồi trên ghế lớn, được khắc, bố trí xung quanh các cạnh của bàn tròn, mà hầu hết đều giống lời chú giải ở tầng cuối cùng của thành-phố-núi đào qua đỉnh của Korgan và Ingeitum.
Vào lúc này, Gáldhiem, lãnh đạo bộ tộc Dûrgrimst Feldûnost, đang nói. Ông ta lùn, ngay cả với một người lùn – không hơn hai feet chiều cao – và mang mẩu áo choàng vàng, nâu đỏ nhat, và xanh đậm. Không giống như nhiều người lùn trong Ingeitum, ông ta không gọn gàng hoặc tết râu lại, để nó lòng thòng trước ngực như là bụi cây gai. Đứng trên ghế, ông đập mạnh cái bàn bóng loáng bằng tay nắm lại trong găng của ông ta và gầm lên, ” . . . Eta! Narho ûdim etal os isû vond! Narho ûdim etal os formvn mendûnost brakn, az Varden, hrestvog dûr grimstnzhadn! Az Jurgenvren qathrid né dômar oen etal-“
“. . . Không,” Eragon dịch lại, một người lùn tên Hûndfast, thì thầm. “Ta sẽ không cho phép điều đó xảy ra. Ta sẽ không để các lũ đần độn không râu này, lũ Varden, phá huỷ quốc gia của chúng ta. Cuộc Chiến Rồng làm chúng ta yếu đi và không -“
Eragon cố kiềm chế ngáp, chán chường. Nó tự cho phép chính nó thả hồn nhìn xung quanh bàn đá granit, từ Gáldhiem đến Nado, một người lùn mặt tròn với tóc màu vàng nhạt, người đang gật đầu lia lịa với bài diễn thuyết như sấm của Gáldhiem; Đến Havard, người đang dùng dao găm để làm sạch móng tay dưới của hai ngón tay còn lại trên tay phải của ông; Đến Vermûnd, lông mày rậm nhưng mặt khác, khó dò sau mạng che tím của ông; Đến Gannel và Ûndin, người ngồi hướng gần nhau, đang thì thầm, trong khi Hadfala, một phụ nữ người lùn cao tuổi là tộc trưởng Dûrgrimst Ebardac và là thành viên thứ ba trong liên minh với Gannel, cau mặt nhìn mớ giấy da đầy phép thuật mà bà ta mang đến mọi cuộc họp; Và rồi tới tộc trưởng của Dûrgrimst Ledwonnû, Manndrâth, người ngồi nghiêng về phía Eragon, lộ ra cái mũi dài, khoằm xuống để ấn tượng tốt; Đến Thordris, tộc trưởng của Dûrgrimst Nagra, người mà nó có thể thấy một chút trừ mái tóc gợn sóng màu nâu vàng của bà, mà nó thì xoã ra sau vai bà xuống sàn, bằng hai lần chiều cao của bà; Đến phía sau đầu của Orik mà nó có thể thấy sau lưng ghế anh ta là Freowin, tộc trưởng Dûrgrimst Gedthrall, một người lùn cực kỳ béo, người luôn giữ mắt ông cố định lên khúc gỗ mà ông đang bận khắc vào chân dung một con quạ to tướng; Đến Hreidamar, tộc trưởng của Dûrgrimst Urzhad, người mà trái ngược với Freowin, tướng người vừa vặn, với cẳng tay nhỏ, người mặc áo giáp dài và chỉ huy việc thu thập thông tin; Và cuối cùng đến Íorûnn, da của bà ta nâu sẫm bị một vết thương mỏng, hình lưỡi liềm ngay trên xương gò má bên trái, một mái tóc bóng mượt buộc dưới mũ bạc hình đầu sói, mặc một cái váy màu đỏ son và đeo vòng cổ bằng vàng nạm ngọc lục bảo lấp lánh.
Íorûnn để ý Eragon đang nhìn bà ta. Một cái cười mỉm hiện ra trên môi bà. Với vẻ khêu gợi, bà ta nháy mắt về phía Eragon, che khuất một trong hai cặp mắt hình quả hạnh của bà từng làm lỗi nhịp nhiều trái tim.
Má của Eragon đỏ lên như máu bị dồn lên, tai nó đỏ bừng như bị ong đốt. Nó thay đổi cái nhìn về phía Gáldhiem, ông ta vẫn còn đang bận cố chấp với ý kiến của ông, đưa ngực ra trước như con gà trống oai vệ.
Vì Orik đã nói trước, Eragon vẫn bình thản suốt cuộc họp, giấu phản ứng lại những người nhìn nó. Khi cuộc họp tạm dừng để ăn trưa, nó vội đi lại Orik và giả bộ về hướng khác để không ai có thể nghe thấy, nói:
– Đừng tìm tôi từ bàn của anh. Tôi chịu đủ việc ngồi và nói rồi. Tôi sẽ đi khám phá các đường hầm một tý.
Orik gật đầu, giả vờ lãng đi, và thì thầm trả lời:
– Cứ làm gì mà cậu muốn, nhưng chắc chắn là cậu sẽ về trước khi cuộc họp tiếp tục; Sẽ không tốt nếu cậu trốn, cho dù cuộc họp chán như thế nào đi nữa.
– Theo ý anh vậy.
Eragon ra khỏi phòng họp, qua khỏi một nhóm người lùn đang hăm hở ăn bữa trưa của họ, và quay trở lại với bốn vệ sĩ đang chờ ở ngoài hành lang, nơi họ đang chơi trò may rủi với nhiều chiến binh nhàn rỗi của các thị tộc khác. Với những vệ sĩ theo sau, Eragon đi vào một hướng ngẫu nhiên, cho phép đôi chân mang nó đi nơi nào muốn trong khi nó suy nghĩ về cách hàn gắn lại việc chia bè phái bất đồng của người lùn thành một khối đoàn kết chống lại Galbatorix. Theo như nó nghĩ thì cách duy nhất nó có thể hình dung ra thì thật là quá cường điệu, thật quá ngớ ngẩn để tưởng tượng ra cách đó có thể thành công.
Eragon để ý đến nhóm người lùn mà nó gặp trong đường hầm—ngoại trừ lầm bầm vài câu chào mà đôi khi phép xã giao lịch sự đòi hỏi—thậm chí rào cản xung quanh của nó cũng không chính xác, tin tưởng rằng Kvîstor có thể dẫn nó trở về phòng họp. Mặc dù Eragon không học lập rào cản xung quanh, nó vẫn giữ dấu tư tưởng của hầu hết các sinh vật mà nó có thể cảm nhận được trong bán kính vài chục thước, thậm chí đến cả con nhện nhỏ nhất đang trốn sau cái mạng nhện trong góc một căn phòng, vì Eragon không muốn bị bất ngờ vì ai đó tìm ra nó.
Cuối cùng khi nó dừng lại, nó ngạc nhiên khi thấy chính nó ở trong cùng căn phòng bụi bặm mà nó đã phát hiện trong lần đi lang thang ngày hôm trước. Phía bên trái nó vẫn là năm khung vòm đen dẫn tới cái hang bí ẩn này, trong khi phía bên phải nó cũng là bức phù điêu khắc đầu và vai một con gấu đang gầm gừ. Vẫn còn ngạc nhiên bởi sự trùng hợp ngẫu nhiên, Eragon đi chậm rãi về phía bức phù điêu bằng đồng và nhìn lên răng nanh trắng bóng của con gấu, tự hỏi cái gì đã kéo nó quay trở lại.
Một lúc sau, nó đi vào giữa năm khung vòm và nhìn qua đó. Hành lang chật hẹp phía dưới không có đèn lồng và sớm chìm vào bóng tối. Phóng tư tưởng của nó ra, Eragon thăm dò xem độ dài của đường hầm và một số các phòng mỏ ngõ bị bỏ. Một nửa tá nhện và một đống gồm bướm đêm, động vật nhiều chân, và dế là những loài duy nhất cư trú ở dưới.
– Xin chào.
Eragon kêu, và nghe như là giọng nói của chính nó quay lại còn một nửa âm lượng.
– Kvîstor.
Eragon nói, nhìn vào anh ta.
– Không lẽ chẳng có ai sống ở nơi cổ xưa này?
Một người lùn mặt trẻ măng trả lời:
– Có một số. Một số ít người lùn kỳ quặc, những người mà không có bạn bè là niềm vui hơn so với cái chạm của tay vợ hoặc âm thanh tiếng nói của bè bạn. Một trong những người lùn trong số đó đã báo cho chúng ta cách tiếp cận đội quân của Urgal, nếu ngài còn nhớ, Bàn-Tay-Bạc. Ngoài ra, mặc dù chúng tôi không nói tới họ thường xuyên, nhưng họ là những người đã vi phạm pháp luật của vùng đất chúng tôi và những tộc trưởng của họ đã đày họ đi với thời hạn nhiều năm, hoặc, nếu có vi phạm nghiêm trọng, thì sẽ hết phần đời còn lại của họ. Tất cả họ như là những xác chết biết đi đối với chúng tôi; chúng tôi tránh xa họ nếu gặp họ ở bên ngoài vùng đất của chúng tôi và treo họ nếu chúng tôi bắt được họ trong biên giới chúng tôi.
Khi Kvîstor đã nói xong, Eragon cho biết là nó đã sẵn sàng rời khỏi nơi này. Kvîstor chỉ đường, và Eragon theo anh ta ra cửa mà qua đó họ đã đi vào, ba người lùn khác theo sau. Họ đi chưa tới hai mươi mét thì Eragon nghe một tiếng gió lướt nhẹ từ phía sau, mà Kvîstor thì không có vẻ để ý.
Eragon nhìn trở lại. Với ánh sáng màu hộ phách chiếu bởi các đèn lồng không có lửa treo ở hai đầu hành lang, nó thấy bảy người lùn mặc toàn một màu đen, mặt chúng thì che bằng mảnh vải đen và chân chúng được quấn bằng vải rách, đang chạy về phía nhóm của nó với một tốc độ mà Eragon cho rằng chỉ duy nhất tộc thần tiên, các Kỵ sĩ, và các sinh vật khác mang dòng máu ma thuật trong người đạt được. Trên tay phải của chúng cầm một cây dao găm dài, sắc bén với lưỡi dao phản chiếu lập loè nhiều màu sắc rực rỡ, còn tay trái chúng, cầm một cái khiên bằng kim loại với nhiều đinh sắt nhọn nhô ra phía trước. Tâm trí của chúng như là Ra’zac, giấu kín khỏi Eragon.
Saphira! Là ý nghĩ đầu tiên trong đầu Eragon. Sau đó nó mới nhớ ra nó chỉ có một mình.
Xoay người đối mặt với các người lùn quấn vải đen, Eragon rút kiếm ra trong khi la lên cảnh báo.
Nhưng đã quá trễ.
Tiếng la đầu tiên vừa thoát ra khỏi cổ họng nó, ba trong số các người lùn lạ mặt chộp được vệ sĩ ở xa nhất của Eragon và nâng dao găm của chúng để đâm anh ta. Nhanh hơn lời nói hoặc suy nghĩ, Eragon hoà mình vào trong dòng chảy của phép thuật và, không dựa vào ngôn ngữ cổ để tạo ra kết cấu câu thần chú, mà kết lại cấu trúc trên thế giới thành một mô hình dễ chịu hơn đối với nó.. Ba người bảo vệ đứng giữa nó và những kẻ ám sát thì bay về phía nó như bị giật mạnh bởi sợi dây vô hình nào đó, và đặt chân chúng bên cạnh nó, không bị tổn hại gì nhưng bị mất phương hướng.
Eragon nhăn mặt vì bị giảm sức bất ngờ.
Hai trong số người lùn quấn vải đen tấn công ào ạt vào nó, đâm vào bụng nó bằng những con dao găm khát máu. Kiếm trong tay, Eragon gạt được cả hai cú, sửng sờ vì tốc độ và sự tàn bạo của họ. Một trong số những vệ sĩ của nó nhảy tới trước, hét lên và vung cây rìu của vào những kẻ ám sát. Trước khi Eragon có thể túm lấy áo giáp của ông lùn và kéo ông ta lại an toàn, một lưỡi kiếm trắng, cong queo như có những ngọn lửa ma quái, chọc thủng cái cổ quấn dây thừng của ông ta. Khi ông ta ngã xuống, Eragon nhìn thoáng qua gương mặt méo mó của ông ta và bị sốc khi nhận ra Kvîstor – và cổ họng anh ta chảy ra đỏ rực như thể nó đang bị phân hủy xung quanh con dao găm.
Mình không thể để chúng làm trầy da mình, Eragon nghĩ.
Nổi khùng vì cái chết của Kvîstor, Eragon đâm thật nhanh vào tên sát nhân, người lùn áo đen không có cơ hội để tránh cú ra đòn và gục xuống chết dưới chân Eragon.
Với tất cả sức mạnh, Eragon hét lên, “Đứng phía sau tôi!”
Nhiều vết nứt hẹp chia cắt các sàn và bức tường, và những viên đá rơi từ trần xuống khi giọng nó vang dội xuyên suốt hành lang. Những tên lùn đang tấn công chùn trước uy lực giọng nói không kiềm chế của nó, rồi lại tiếp tục tấn công.
Eragon lùi vài mét để tạo khoảng trống cho nó di chuyển để không bị vướng các xác chết và cúi người xuống thấp, vung lưỡi kiếm cong qua lại, như một con rắn sẵn sàng tấn công. Tim nó đập nhanh gấp hai lần bình thường, và mặc dù cuộc chiến chỉ mới bắt đầu, nó đã phải thở hổn hển.
Hành lang rộng tám feet, vừa đủ rộng cho ba trong số sáu kẻ địch còn lại tấn công nó cùng một lúc. Chúng tản ra, hai tên cố tấn công hai bên hông trái và phải của nó, trong khi tên thứ ba đánh thẳng vào nó, chém với một tốc độ điên cuồng vào chân và tay Eragon.
Ngại phải đấu với những tên lùn theo cách mà lẽ ra nó đã sử dụng nếu chúng dùng những thanh kiếm thường, Eragon dồn lực chân xuống sàn và nhảy tới trước. Nó quay người nửa vòng và đạp chân trước lên trần. Bật người ra sau và quay nửa vòng lần nữa, và tiếp đất bằng cả chân và tay khoảng một mét đằng sau ba tên lùn. Ngay khi chúng xoay về phía nó, nó bước tới trước và chém đầu cả bọn với một cú ra đòn trái tay.
Dao găm của chúng rơi loảng xoảng xuống đất ngay tức khắc trước cái đầu của chúng.
Tung người nhảy qua những cái xác cụt đầu, Eragon lượn người trong không trung và tiếp đất tại đúng chỗ mà nó đã bắt đầu.
Nó chẳng hề sớm một tý nào.
Một làn gió cù vào cổ nó khi mũi một con dao găm sượt qua cổ họng nó. Một lưỡi kiếm nữa giật mạnh vào cổ chân đeo xà cạp của nó, cắt chúng mở ra. Nó do dự và vung thanh kiếm cong, cố gắng tạo khoảng trống để chiến đấu. Lẽ ra vòng phép bảo vệ của mình đã bẻ hướng kiếm của chúng đi chứ! Nó nghĩ, lúng túng.
Một tiếng thét vô tình thoát ra khỏi cổ họng nó khi nó dẫm phải một mảng máu trơn khiến nó mất thăng bằng và ngã ra đằng sau. Với một tiếng răng rắc nghe phát khiếp, đầu nó đụng với nền đá. Ánh sáng xanh loé lên trước mắt nó. Nó thở hổn hển.
Ba vệ sĩ còn lại của nó nhảy qua nó và vung rìu của họ lên cùng một lúc, dọn dẹp khoảng trống bên trên Eragon và cứu nó khỏi cú đâm của những con dao găm loé sáng.
Đó là tất cả thời gian Eragon cần để hồi phục. Nó bật người dậy và, tự trách mình vì đã không thử điều này sớm hơn, hét một câu thần chú trói buộc thứ chín trong số mười hai từ chết người mà Oromis đã dạy nó. Tuy nhiên ngay lúc nó giải phóng phép thuật, nó bỏ ngay câu thần chú, vì những tên lùn áo đen này được bảo vệ bằng rất nhiều vòng phép. Nếu được gia hạn thêm mấy phút, nó đã có thể tránh được hoặc là phá hủy những vòng phép đó, nhưng vài phút này có lẽ cũng tương tự như nhiều ngày trong một trận chiến thế này, khi mà từng giây đều dài như một giờ. Phép thuật bị thất bại, Eragon gồng cứng suy nghĩ của nó thành một ngọn giáo cứng như sắt và phóng đến chỗ mà nó đoán là tư tưởng của một trong những tên lùn áo đen. Ngọn giáo trượt khỏi áo giáp tâm trí mà Eragon chưa từng đụng phải trước đây: trơn mượt và liền một mảnh, có vẻ như không thể phá vỡ bởi những mối quan tâm tự nhiên đối với những sinh vật đang bị vướng vào một cuộc chiến đấu với cái chết.
Một kẻ nào đó đang bảo vệ chúng, Eragon nhận ra. Có nhiều kẻ đứng sau cuộc tấn công này hơn là chỉ có bảy tên ở đây.
Trụ lên một chân, Eragon nhào tới trước và lưỡi kiếm cong của nó xuyên qua đầu gối tên tấn công ngoài cùng phía bên trái, máu bắn vọt ra. Tên lùn sẩy chân, và những vệ sĩ của Eragon đổ về phía hắn, túm chặt tay tên lùn để tên đó không thể vung kiếm được, rồi chém mạnh vào hắn bằng thanh rìu cong.
Tên gần hơn trong hai kẻ ám sát còn lại đưa khiên lên chống lại cú chém mà Eragon định nhắm vào hắn. Dồn toàn bộ giới hạn sức mạnh, Eragon chém vào cái khiên, định chặt nó và cả cánh tay bên dưới ra làm đôi, như nó vẫn thường làm với thanh Zar’roc. Tuy nhiên, trong suốt cuộc chiến, nó đã quên không tính đến tốc độ của tên lùn. Khi lưỡi kiếm đến gần mục tiêu của nó, tên lùn nghiêng cái khiên của hắn, làm chệch hướng cú chém về một phía.
Hai chùm sáng bắn ra từ bề mặt tấm khiên khi thanh kiếm xược qua phía trên, rồi đến mũi đinh thép gắn ở giữa. Xung lực đẩy lưỡi kiếm đi xa hơn Eragon dự đoán, và nó tiếp tục bay xuyên qua không khí cho đến khi đâm vào cạnh một bức tường, làm choáng cả cánh tay Eragon. Với một âm thanh trong như pha lê, lưỡi kiếm vỡ thành nhiều mảnh, để lại một mũi nhọn kim loại lởm chởm dài mười sáu phân nhô ra khỏi chuôi kiếm.
Mất hết tinh thần, Eragon buông thanh kiếm gãy ra và nắm lấy vành khiên của tên lùn, vật lộn với hắn và cố gắng hết sức để giữ cho cái khiên ở giữa nó với con dao găm lóe hào quang với những màu sắc mờ đục. Tên lùn mạnh không thể tin được; hắn chống lại được nỗ lực của Eragon và thậm chí còn thành công trong việc đẩy nó lùi một bước. Thả tay phải ra khỏi cái khiên nhưng vẫn giữ chặt bằng tay trái, Eragon thu tay lại và đấm lên cái khiên mạnh hết mức mà nó có thể, đấm xuyên qua lớp thép đã được tôi luyện một cách dễ dàng như thể làm bằng gỗ mục. Nhờ những cục chai sần trên các khớp đốt ngón tay, nó hoàn toàn không cảm thấy đau bởi cú đấm.
Lực của cú đấm ném tên lùn văng vào bức tường đối diện. Đầu hắn ngoẹo sang một bên trên cái cổ không xương, tên lùn đổ xuống đất, như một con rối bị cắt hết dây.
Eragon rút tay lại qua cái lỗ lởm chởm trên tấm khiên, bị trầy da vì đấm vào kim loại, và rút con dao săn của nó ra.
Rồi tên cuối cùng trong đám người lùn mặc đồ đen tấn công nó. Eragon gạt con dao găm của hắn hai lần… ba lần… và rồi cắt xuyên qua tay áo của tên lùn và rạch tay cầm dao của hắn từ khuỷu tay đến cổ tay. Tên lùn rống lên vì đau, đôi mắt xanh biển trở nên điên tiết dưới miếng vải che mặt. Hắn bắt đầu một loạt những cú đánh, con dao găm rít lên trong không khí nhanh hơn so với mắt có thể theo kịp, buộc Eragon phải nhảy đi để tránh lưỡi dao chết người. Tên lùn thúc đẩy cuộc tấn công. Trong vài mét, Eragon tránh được hắn thành công, cho đến khi gót chân nó va vào một cái xác và, trong nỗ lực bước qua cái xác, nó bị vấp và ngã vào bức tường, làm thâm tím vai mình.
Với một tiếng cười độc địa, tên lùn đâm thẳng vào, đâm xuống lồng ngực đang phơi bày ra của Eragon. Quăng một cánh tay lên trong cố gắng vô ích để bảo vệ bản thân, Eragon lăn xa hơn xuống dưới hành lang, biết rằng lần này may mắn của nó đã hết và nó sẽ không thể thoát được nữa.
Khi nó đã lăn hết một vòng và mặt nó xoay về phía tên lùn, Eragon nhận thấy lờ mờ con dao đang đâm xuống da thịt nó, như một tia sét từ trên cao giáng xuống. Rồi, nó ngạc nhiên khi thấy mũi con dao đâm trúng một cái đèn lồng không lửa gắn trên tường. Eragon xoay mình lăn ra ngoài trước khi nó có thể nhìn thấy gì thêm, nhưng một lúc sau đó, một bàn tay nóng cháy hừng hực dường như tấn công nó từ phía sau, ném nó bay ít nhất sáu thước xuyên qua hành lang, cho đến khi nó ngã đập vào cạnh của một cái cổng vòm đang mở, ngay lập tức nhiều vết trầy xước và thâm tím khác hiện ra như một bộ sưu tập. Một tiếng nổ ầm làm điếc tai nó. Cảm thấy như có ai đó đang lùa những mảnh vụn vào trong màng nhĩ nó, Eragon chụp tay lên đầu và cuộn người thành một quả bóng, rít lên.
Khi tiếng động và cơn đau đã dịu đi, nó hạ tay xuống và lảo đảo đứng lên, nghiến chặt răng vì những vết thương trên người. Lảo đảo và loạng choạng, nó nhìn chằm chằm về phía vụ nổ.
Vụ nổ đã phủ đen một khoảng dài hơn mười bước trong hành lang bằng bồ hóng. Những bụi tro tàn mềm mại cuộn lên trong không trung, cũng nóng như không khí từ trong một cái lò rèn đang đốt nóng. Tên lùn vừa nãy định đâm Eragon thì nằm trên mặt đất, thảm bại, cơ thể phủ đầy vết bỏng. Sau vài cơn co giật, hắn nằm bất động luôn. Ba vệ sĩ còn sống của Eragon nằm ở bờ của đám bồ hóng, nơi mà vụ nổ chắc đã quăng họ ra. Ngay khi nó nhìn, họ lảo đảo đứng dậy, máu nhỏ giọt từ tai và những cái miệng mở tang hoác của họ, râu cháy xém và rối tung. Những đường nối chạy dọc vành áo giáp của họ sáng rực màu đỏ, nhưng lớp da lót áo giáp của họ có vẻ đã bảo vệ họ khỏi những việc tồi tệ nhất từ nhiệt.
Eragon bước tới từng bước, rồi dừng lại và rên rỉ khi một cơn đau bùng ra giữa hai xương vai của nó. Nó cố xoay tròn cánh tay để cảm nhận phạm vi của vết thương, nhưng khi da nó giãn ra, cơn đau trở nên quá lớn khiến nó không thể tiếp tục. Gần như mất đi ý thức, nó tựa vào tường để chống. Nó liếc nhìn tên lùn bị cháy lần nữa. Chắc mình cũng bị thương tương tự như vậy trên lưng.
Tự ép buộc chính nó phải tập trung, nó đọc lại hai câu thần chú được tạo ra để chữa những vết bỏng mà ông Brom đã dạy nó trong suốt những chuyến du hành. Khi chúng có hiệu lực, nó cảm thấy như một dòng nước mát êm dịu đang chảy dọc lưng nó. Nó thở dài nhẹ nhõm và đứng thẳng dậy.
– Các anh có bị thương đâu không?
Nó hỏi khi mấy người vệ sĩ khập khiễng bước tới.
Người lùn đi đầu nhăn mặt, đập nhẹ vào tai, và lắc đầu.
Eragon lầm bầm nguyền rủa và chỉ khi đó nó mới nhận thấy nó không thể nghe được giọng nói của nó. Một lần nữa rút năng lượng dự trữ từ bên trong cơ thể, nó đọc thần chú khôi phục lại cơ cấu bên trong tai của nó và của họ. Khi câu thần chú kết thúc, một cơn ngứa đến khó chịu bò ngoằn ngoèo trong tai nó, rồi mất dần cùng với câu thần chú.
– Các anh có bị thương đâu không?
Người lùn phía bên phải, một người vạm vỡ với bộ râu hình chữ chi, ho và phun ra một cục máu đông, rồi càu nhàu
– Không gì mà thời gian không sửa được. Ngài thì sao, Khắc-tinh-của-Tà-thần?
– Tôi sẽ sống.
Kiểm tra sàn trên từng bước, Eragon bước vào khu vực phủ đen bồ hóng và quỳ xuống bên cạnh Kvîstor, hy vọng nó vẫn có thể cứu ông ta khỏi nanh vuốt thần chết. Ngay khi nó trông thấy vết thương của Kvîstor, nó biết điều đó là không thể.
Eragon gục đầu xuống, ký ức về cuộc đổ máu mới đây làm đau xót tâm hồn nó. Nó đứng dậy.
– Tại sao cái đèn lồng lại phát nổ?
– Chúng chứa đầy hơi nóng và ánh sáng, thưa Bàn-Tay-Bạc.
Một vệ sĩ trả lời.
– Nếu chúng bị vỡ, tất cả sẽ thoát ra cùng một lúc và lúc đó tốt hơn là nên đứng xa chúng ra.
Ra dấu về phía các xác chết nhàu nát của những kẻ ám sát, Eragon hỏi:
– Anh có biết chúng là người của tộc nào không?
Người lùn với bộ râu hình chữ chi lục lọi quần áo của vài tên lùn áo đen từ bên này qua bên kia, rồi nói:
– Barzûl! (Chết tiệt!) Chúng không mang một dấu hiệu nào trên người để ngài có thể nhận ra, Bàn-Tay-Bạc ạ, nhưng chúng có mang cái này.
Anh ta đưa ra một cái vòng đeo tay làm bằng lông ngựa tết lại có gắn những viên thạch anh tím tròn bóng.
– Nó có nghĩa gì?
– Loại thạch anh tím này,
Anh lùn nói, và gõ vào một trong những viên ngọc với một cái móng tay đầy vệt bồ hóng.
– Loại thạch anh tím đặc biệt này, nó chỉ mọc trên bốn phía của dãy núi Beor, và ba trong số đó thuộc về Az Sweldn rak Anhûin.
Eragon nhăn mặt.
– Vậy là Tộc trưởng Vermûnd đã sắp đặt cuộc tấn công này sao?
– Tôi không chắc chắn lắm, thưa Bàn-Tay-Bạc. Có thể một bộ tộc khác đã để cái vòng này lại cho chúng ta tìm thấy. Họ có thể muốn chúng ta nghĩ rằng đó chính là tộc Az Sweldn rak Anhûin, như thế chúng ta sẽ không nhận ra kẻ thù thực sự là ai. Nhưng… nếu tôi phải đánh cược, Bàn-Tay-Bạc, tôi sẽ cược một xe đầy vàng rằng chính bọn Az Sweldn rak Anhûin chịu trách nhiệm trong vụ này.
– Quỷ tha ma bắt chúng đi.
Eragon lầm bầm.
– Cho dù là kẻ nào, quỷ tha ma bắt chúng.
Nó siết chặt hai nắm tay để ngăn chúng run lên. Bằng một bên đôi bốt, nó đá vào những con dao găm hình trụ mà bọn ám sát đã sử dụng.
– Những câu chú trên những vũ khí này và trên những… những tên đàn ông này.
Nó hất cằm ra dấu
– Đàn ông, người lùn, cái gì cũng thế, chúng phải đòi hỏi một lượng nội lực kinh khủng, và tôi không thể tưởng tượng ra được độ phức tạp của những từ ngữ. Thực hiện chúng sẽ rất khó và nguy hiểm…
Eragon nhìn lần lượt những vệ sĩ của mình và nói.
– Các anh là các nhân chứng của tôi, tôi thề sẽ không để cuộc tấn công này, cũng như cái chết của Kvîstor, thoát khỏi sự trừng phạt. Dù bất cứ một bộ tộc hay những bộ tộc nào gửi những tên sát thủ thú vật này đến, tôi mà biết được tên chúng, chúng sẽ ước rằng chưa bao giờ nghĩ đến việc tấn công tôi và, bằng việc tấn công tôi, tấn công vào Dûrgrimst Ingeitum. Điều này tôi thề với các anh, nhân danh một Kỵ sĩ Rồng và như một thành viên của Dûrgrimst Ingeitum, và nếu bất cứ ai hỏi các anh, cứ nhắc lại lời hứa của tôi với họ như tôi đã nói với các anh.
Những người lùn cúi đầu trước nó, và người có râu hình chữ chi đáp lời.
– Như ngài ra lệnh, chúng tôi làm theo, thưa Bàn-Tay-Bạc. Ngài làm tôn vinh ký ức về vua Hrothgar bằng những lời nói của ngài.”
Rồi một người lùn khác nói:
– Dù là bất cứ bộ tộc nào, chúng đã xâm phạm luật về lòng hiếu khách; chúng đã tấn công một vị khách. Chúng còn không sánh bằng lũ chuột, chúng là những menknurlan.
Anh ta nhổ lên sàn, và những người lùn kia nhổ theo anh ta.
Eragon đi lại nơi vẫn còn những tàn tích của thanh kiếm nó. Nó quỳ gối xuống đám bồ hóng và, dùng đầu ngón tay, chạm vào một trong những mảnh vỡ bằng kim loại, lần theo hai cạnh tả tơi của nó. Chắc mình đã chém vào cái khiên và bức tường rất mạnh, lấn áp cả những thần chú mà mình đã dùng để tăng cường sức mạnh cho lưỡi kiếm, nó nghĩ.
Rồi nó nghĩ, Mình cần một thanh kiếm.
Mình cần một thanh kiếm Kỵ sĩ.