NÊN sao chép, chia sẻ, KHÔNG NÊN thương mại hoá.

Lửa Hận

Chương 5

Tác giả: Jessica Hall
Ads Top

“Marc LeClare là cha cô ư?” vẻ hoài nghi trong giọng Jean-Del buốt nhói như một cái tát.

“Tôi đã nói anh sẽ không tin mà”. Sable áp hai bàn tay lạnh giá của mình dưới cánh tay và nhìn chăm vào những vết máu khô trên chiếc quần nàng lấy trộm.

Caine Gantry tuy đã làm nàng hoảng sợ nhưng chắc cũng không bằng Jean-Del khi anh ta chợt hiện ra chẳng biết từ đâu. Nàng đã cố hết sức cưỡng lại khi bị anh ép sát vào xe để hôn. Nếu có thể gọi đó là hôn. Nàng chạm khẽ đầu ngón tay vào môi dưới vẫn còn đau do vết răng anh. Sự thô bạo ấy khiến nàng sửng sốt – chàng Jean-Delano nàng từng yêu ngày nào chẳng bao giờ động đến nàng dầu chỉ một ngón tay, dầu trong cơn giận dữ – nhưng đồng thời cũng khơi dậy ở nàng một điều gì đó. Một phản ứng lạ lùng dầy nữ tính khiến nàng không thể cưỡng lại hai bàn tay và cả đôi môi anh. Nó khiến nàng chấp thuận, tạo ra một nỗi khát khao mãnh liệt muốn làm điều gì đó hơn là chỉ oằn oại trước cơn giận dữ của anh. Nàng những muốn thả mình trong niềm đam mê ấy.

Có thể mình sẽ an toàn hơn khi ở lại chỗ Caine.

Jean-Del chạy chậm lại rồi cho xe vào bên đường và tắt máy. Anh ngồi lặng im, không nói không rằng trong vài phút.

Cuối cùng khi lên tiếng trở lại giọng anh nghe vẫn lạnh lùng nghiêm khắc. “Tôi biết về Marc gần suốt cả đời mình nhưng chưa bao giờ nghe ông ấy nhắc tên cô. Không một lần. Ngay cả hồi chúng ta còn hò hẹn với nhau kia, lạy Chúa”.

“Trước đó ông ấy cũng chưa biết về tôi. Mẹ tôi chưa bao giờ cho ông ấy biết việc bà có mang tôi. Bà ấy cũng chẳng bao giờ cho biết ông ấy là cha tôi”. Nỗi xót thương chợt tràn ngập trong lòng khi nàng hiểu rằng chẳng bao giờ còn gặp được cha mình nữa – chỉ còn lại ký ức về cuộc gặp gỡ vụng về lần đầu tiên để nàng còn có thể nhớ về ông.

“Mẹ cô là một cô gái Cajun”. Đây không phải là một câu hỏi.

Nàng hiểu dòng suy nghĩ của anh – Marc LeClare thuộc một trong những dòng họ Creole lâu đời và giàu có nhất New Orleans – nên ông ta và mẹ nàng không thể quen nhau qua đám bạn bè chung của họ. “Hẳn họ đã gặp nhau khi Marc bị lạc trong đầm lầy. Mẹ tôi tìm thấy ông ta và đưa về nhà. Cha của bà, tức ông ngoại tôi, đã đưa ông ấy về lại thành phố”.

Anh quay sang nàng. “Chỉ có vậy mà họ yêu nhau”.

“Marc đã yêu, hay ít ra ông ta đã nói vậy khi gặp tôi. Tôi nghĩ chắc mẹ tôi phải mất một thời gian lâu hơn mới bị thuyết phục, lúc đó bà ấy còn quá trẻ”. Nàng rùng mình. “Ông ấy đã quay lại thăm bà vào ngày hôm sau, và vẫn đến thăm sau đó. Ông ấy bảo đấy là mùa hè hạnh phúc nhất trong cuộc đời mình”.

“Marc LeClare và một cô gái Cajun”. Anh lắc đầu, vẫn đầy vẻ hoài nghi.

“Có gì khó tin lắm đâu cơ chứ, Jean-Del? Mẹ tôi vốn rất dịu dàng, xinh đẹp”. Nỗi đắng cay khiến nàng châm tiếp. “Hơn nữa anh cũng từng chọn một nơi nghèo nàn khốn khổ như vậy kia mà, không nhớ sao? Chuyện đó vẫn xảy ra”.

Mắt anh nhíu lại. “Nhưng tôi đã không bao giờ xấu hổ về cô. Tôi luôn tự hào về cô, luôn khoe với mọi người về cô”.

Nàng chưa từng nghe điều đó. Rồi nàng nhún vai. “Nhưng có nghĩa gì nữa đâu, cả hai người giờ đều đã chết và không ai còn có thể biết gì về chuyện ấy”.

Anh định nói gì đó song chợt ngưng lại, rồi hỏi. “Tại sao mẹ cô không nói gì với cô về Marc hết?”

“Tôi không biết”.

“Sao bà ấy không nói gì với Marc về cô?”

“Chắc bà ấy sợ. Cha tôi nói cuối hè năm ấy có mấy người ăn bận sang trọng đến chỗ quán bán mồi câu gặp mẹ tôi. Ông ấy nghĩ có lẽ đó là cha mẹ Marc. Ông ấy không biết họ đã nói gì với bà nhưng bà đã cắt đứt với Marc ngay sau đó. Lúc này hẳn bà đã biết việc có mang tôi”. Nàng miết tay thành vòng tròn quanh một vết máu khô. “Ông bà ngoại gởi bà đến chỗ một người bà con ở Mobile, và tôi đã sinh ra ở đó. Bà ấy chỉ trở lại Atchafalaya khi tôi được vài tháng tuổi”.

Anh lặng im suy ngẫm một thoáng rồi hỏi. “Tên của Marc có trong giấy khai sinh của cô không?”

Nàng gật đầu. “Bà ấy giấu mọi người, nhưng tôi nghĩ bà ấy muốn tôi biết. Thế nào nhỉ, cha tôi nói bà cũng chưa từng nói với ông chuyện đó. Ông chỉ tìm thấy giấy khai sinh của tôi sau khi bà ấy mất. Mẹ tôi vẫn giữ nó cùng mấy bức thư của Marc mà bà ấy cứu được khỏi đám cháy ngày xưa”.

“Đám cháy? Đám cháy nào kia?”

“Vài tuần sau khi mẹ tôi quay về Atchafalaya có ai đó đã phóng hỏa đốt gian hàng bán mồi câu. Remy – cha tôi – đã đưa được tôi và mẹ ra ngoài, nhưng ông bà ngoại tôi đều chết trong đám cháy. Remy bị bỏng rất nặng, ai cũng nghĩ khó qua khỏi, nhưng rồi ông ấy vẫn sống. Bud Gantry bị tống giam, rồi Remy và mẹ tôi cưới nhau và đi chuyển sâu hơn vào trong đầm lầy, nơi gia đình ông vẫn sống.

“Bud Gantry là ai?”

“Là cha của Caine Gantry, là kẻ đốt nhà dạo ấy”. Nàng đưa mắt nhìn lại con đường dẫn đến cơ sở của Gantry. “Bud luôn rêu rao đó là ý tưởng của chính ông ta, nhưng mọi người tin rằng có ai đó đã thuê ông ta làm chuyện ấy – ông ta rủng rỉnh tiền một tuần trước đó, và khi cao hứng lại vênh vang sẽ còn có nhiều hơn. Ông ta chết hai ngày sau khi vào ngục, trước khi có thể tìm ra ai là kẻ đã chi tiền cho ông ấy”.

Có tiếng lắc rắc và những âm thanh nghe như tiếng kim loại. Sable chưa kịp phản ứng gì thì Jean-Del đã chộp gáy nàng đẩy mạnh về phía trước. “Cúi xuống”.

Tiếng nổ thứ hai rất đanh vang lên. Kính chắn gió bị khoan thủng phía trên đầu, bắn tung tóe xuống nàng những mảnh vỡ sắc.

Tiếng súng?

“Ở yên đấy”.

Jean-Del mở máy cho xe de ngược ra đường, vừa chửi thề khi kính cửa bên tay lái cũng vỡ tung. Sable nhìn anh nhấn chân hết ga và bám chặt tay vào ghế, gắng giữ mình thật chắc trong khi xe chao đảo điên cuồng.

“Jean-Del”.

Anh cầm súng nổ hai phát vào kẻ nào đó qua ô cửa vỡ. Tiếng nổ cùng với mùi thuốc đạn khiến nàng bưng tai úp mặt xuống ghế.

Có hai tiếng nổ khác vang lên phía dưới xe, tấm chắn phía trước xe chợt rơi xuống không một dấu hiệu báo trước.

“Giữ chắc nhé!”Jean-Del nhấn mạnh thắng khiến chiếc xe trượt ngang sang phía vệ đường. Sable bị xóc dội đầu chạm trần khi xe trượt khỏi đường và điên cuồng băng qua đám bụi cây.

Trong một thoáng có cảm giác họ đang bay qua khoảng không, sau đó là một cú va chạm khủng khiếp. Sable thoáng thấy bàn tay anh chạm vào mình trước khi dòng nước đen lạnh bắn vọt vào qua lỗ thủng trên kính chắn gió ào vào trong xe.

“Bám vào tôi”. Anh xoay người dùng một tay ôm quanh nàng vừa dồn sức vào chân và tay kia dẩy mạnh để mở cửa. Nước cùng rong rêu ào vào chiếc xe sắp chìm. Mùi tảo bốc lên thật đậm. Jean-Del kiểm tra lại mặt nàng rồi giữ nàng cho chặt hơn. “Bám chặt vai tôi và nín thở đi”.

Nàng bám chặt khi được anh lôi khỏi chiếc xe đang chìm trong nước. Bốn phía xung quanh làn nước đậm đặc lạnh giá như ép chặt tai nàng. Anh đạp cho hai người rời khỏi chiếc xe và kéo nàng vọt lên trên. Nàng cũng bơi cùng anh, gắng dùng chân quẫy để mau tránh xa cái xác xe đang chìm xuống. Mắt nàng bắt đầu hoa lên với cảm giác hai lá phổi sắp nổ tung vì thiếu ôxy cũng là lúc anh kịp đưa nàng vọt lên khỏi mặt nước.

Hơi đầu tiên hít vào khiến nàng bật ho nhưng Jean-Del nhanh tay bịt ngang miệng nàng và ghé sát bên tai. “Im, có người đến đấy”. Nàng gật đầu và bơi cạnh anh về phía bờ kia của dòng sông đang trôi lờ lững, nơi anh đẩy nàng lên một thảm cỏ thừng dày sát ngay mép nước rồi tự mình cũng lết lên theo.

Có gì đó động đậy trong đám cây bụi trên bờ sông bên kia, và tiếng những bọt khí cuối cùng sủi lên từ chiếc xe đã chìm xuống đáy. Jean-Del lấy thân che nàng, ép nàng nằm sát xuống đám cỏ dày lẫn cùng những chiếc lá bách. Nàng nín thở và cảm thấy tim minh đập như trống khi nhận ra một bóng đen xuất hiện ngay mép nước ở bờ kia.

Sau một khoảng lặng im dài vô tận, bóng đen quay lại và lui về phía con đường.

Sable nhắm mắt thở một hơi dài cho cả bầu không khí vừa nén giữ trong lồng ngực trào ra. Tuy bị thâm tím, lạnh cóng và ướt sũng nhưng điều quan trọng là nàng vẫn sống. Họ vẫn sống.

“Sable”. Jean-Del nhổm dậy, nhẹ nhàng lật nàng nằm ngửa ra. “Cưng, em không bị sao chứ?”

Nàng nói không nổi – mồm miệng tê cứng – rồi chợt nhận ra hàm mình đang nghiến chặt. Nàng chống tay gắng nâng mình dậy nhưng vẫn thấy chao đảo. “Có lẽ vậy”.

“Tốt lắm”. Jean-Del giúp nàng ngồi lên và vẫn choàng một tay nâng giữ nàng, mắt vẫn không ngừng quan sát phía bờ sông bên kia. “Có vẻ như hắn đi rồi. Anh phải đưa em khỏi đây đến chỗ nào đó thật an toàn”.

Điều anh nói hầu như không tác dụng. “Em tưởng anh đến bắt em vào tù. Vì tội ăn cắp xe”.

“Không. Chúng ta phải tìm ra kẻ nào đã giết Marc”, anh nói, vén chỗ tốc ướt khỏi mắt nàng, “Và kẻ nào đang cố giết em”.

Nàng nghĩ đến Caine Gantry, người mà nàng từng biết cả cuộc đời. Nàng chưa bao giờ nghĩ ông ta có thể là kẻ sát nhân – và nếu ông ta muốn nàng chết, tại sao hồi tối ông ta tỏ ra thô bạo đến thế để xua đuổi nàng đi? Điều đó thật khó hiểu. Nếu nàng cho Jean-Del biết đã nhìn thấy Billy Tibbideau ở bệnh viện anh ta hẳn sẽ bắt ngay Caine và Cơ sở sản xuất Gantry sẽ lập tức bị đóng cửa – đúng như điều nàng đã cảnh báo cho đám người của Caine. Nhiều gia đình sẽ lâm vào cảnh khốn cùng, chính những gia đình mà nàng đang gắng giúp đỡ. Nàng không thể để chuyện đó xảy ra.

Sable chưa bao giờ đồng ý với cái cách mà những người Cajun dùng để bảo vệ quyền lợi của chính mình. Nó cho phép quá nhiều người hành xử ngoài khuôn khổ pháp luật và né tránh nó. Trừ khi có được bằng chứng không thể chối cãi rằng Caine Gantry đứng đằng sau kẻ gây án, nàng không còn sự lựa chọn nào khác là vẫn làm như đã định.

***

Sau khi nghe Terri Vincent cho biết Jean-Del cùng với nữ nhân chứng duy nhất của vụ án LeClare đã biến mất, Cort đi ngay đến gặp đại úy Pellerin. Sếp Phòng trọng án từ chối chuyển giao vụ này sang cho tổ điều tra hỏa hoạn của Cort, lấy sự quan tâm sít sao của báo giới cùng vị thế xã hội quá cao của nạn nhân làm lý do chính để giữ quyền kiểm soát của mình.

“Một khi em trai ông đang là điều tra viên chính của vụ này, anh em ông chẳng có lý do gì để cùng làm việc với nhau cả”. Giọng Pellerin nghe có vẻ bàng quan nhưng dường như ông ta đang nắm tay đắc thắng. “Hãy cho chúng tôi biết những gì mà người của các ông phát hiện được và nhớ thường xuyên giữ liên lạc với chúng tôi”.

Cort chẳng buồn tranh cãi mà rời đồn đi thẳng đến hiện trường vụ án mạng. Một chiếc xe cứu hỏa vẫn đậu bên lề đường cạnh căn nhà tan hoang, và có thể còn ở đó cho đến khi những dữ liệu rõ ràng nhất được báo cho người phụ trách điều tra hiện trường. Bởi thành phố đã áp dụng qui trình chuẩn trong tình trạng khẩn cấp và cắt điện toàn khu phố, người ta treo lên những ngọn đèn tạm được chiếu sáng nhờcác máy phát điện cơ động. Các băng chắn sọc vàng được giăng quanh toàn bộ hiện trường, khu cách ly đã được thiết lập để đảm bảo không gian làm việc cho các nhân viên điều tra.

Chiếc xe trắng không mang dấu hiệu thuộc tổ điều tra của Cort đang đậu ở ngay lối vào hiện trường, các cửa sau của xe vẫn mở. Khi đậu lại và đến bên chiếc xe nọ, Cort nhìn thấy hai nhân viên kỹ thuật của mình khiêng ra các túi tang vật chứa đầy những mảnh thủy tinh vỡ. Cả hai đều bận quần áo bảo hộ và mang găng tay đặc biệt dùng bảo vệ họ khỏi phỏng do những vật còn nóng tại hiện trường.

“Thưa sếp”. Một nhân viên của ông tên là Gil McCarthy đặt chiếc bao của mình vào một thùng lớn mở nắp đặt phía sau khoang xe tải và lột bỏ găng tay khi đến bên ông. “Warren nói tối nay ông sẽ về”.

Cort nhìn chăm lên các mảnh tường nám đen đổ vỡ. Không khí năng mùi gỗ cháy ẩm ướt, mùi chất dẻo nóng chảy và rền rền tiếng máy phát điện cơ động. “Hãy báo cáo nhanh cho tôi các thông tin cập nhật của vụ này”.

“Chúng tôi đã thực hiện việc kiểm tra dò soát và không phát hiện độc tố dạng khí hay các phương tiện phát sinh khác. Cấu trúc chung phần lớn đã bị hủy nhưng thanh tra xây dựng cho biết đã đánh dấu một số khu vực có nguy cơ sụp đổ ở bên trong. Kẻ thực hiện vụ này biết rõ việc hắn làm”. Gil hất dầu về phía chiếc xe tải. “Chúng tôi đã phát hiện nhưng phần còn lại chắc chắn là của sáu quả bom xăng tự tạo”.

“Đều làm từ chai thủy tinh và giẻ?”

Gil gật đầu. “Cùng một kiểu như hai vụ kia”.

Người của Cort hàng tuần vẫn bắt gặp những phương tiện gây cháy thông dụng nhất, thường là từ những vật liệu rất ngẫu nhiên. Các nhiên liệu lỏng như xăng, dầu hỏa cùng với thuốc súng vốn rất dễ tìm chính là công cụ thuận tiện nhất để tạo nên những quả bom cháy. “Các anh tìm thấy xác chết ở đâu?”

“Trên tầng hai. Chúng tôi đã quay phim chụp ảnh mọi thứ trước khi để bên giám định pháp y chuyển đi. Một ca bị đập chết và đốt cháy tiêu biểu”. Gil chỉ tay về phía trạm đồ họa dã chiến dựng cạnh lối vào, nơi thực hiện sơ đồ tòa nhà và bản đồ chi tiết kẻ ô của hiện trường. Phía bên trong lối vào có nhiều ngọn cờ màu cam đánh dấu những nơi vật chứng được thu thập.

“Chúng tôi đã cấm việc ra vào hiện trường đối với các đối tượng không phận sự, nhưng cũng chẳng dễ dàng gì”. Gil trừng mắt nhìn về phía hai chiếc xe của các hãng tin đậu ngay sát ngoài đường biên cấm. “Có mấy thằng khốn vác camera trèo lên chướng ngại vật định chụp ảnh cái xác khi được mang ra. Đám phóng viên cũng xâu xé suất”.

“Đưa tôi đi xem qua một lượt đi”.

Khi cùng Gil đi vào gian nhà Cort tập trung mường tượng một cái nhìn tổng quan về hiện trường qua phần miêu tả của Gil để hình dung xem ngôi nhà đã bị đốt cháy như thế nào. Vật chứng không chỉ giới hạn ở các phương tiện để phóng hỏa – tro và các mảnh vỡ được thu thập để xét nghiệm – mà cả một số cấu trúc cố định hoặc đi động cũng cần được chuyển đi để phân tích.

“Chúng tôi đã đề ra một giả thuyết sơ bộ. Có vẻ như ba chai đầu tiên đã được đốt lên ở tầng hai phía bên trong, sau đó ba chai khác được ném vào qua cửa sổ phía sau từ ngoài đường”. Gil đi vòng quanh một vũng nước dơ. “Bên điều tra đã tranh cãi rất nhiều và cũng chưa thấy có nhân chứng nào khác ngoài cô Duchesne. Các tòa nhà xung quanh đều không có người ở, cũng chẳng có nhân viên giao hàng hoặc dịch vụ nào ngẫu nhiên có mặt ở đó ngay trước khi đám cháy xảy ra cả”.

Cort quỳ xuống xem xét một thanh xà nhà đổ đã cháy loang lổ và gãy thành nhiều mảnh. Sức nóng bên trong ngôi nhà hẳn phải rất kinh khủng, và đám cháy có thể trông rất dữ dội trước khi bị khống chế. “Ta có quay video cảnh đám đông đứng xem không?” Kẻ đốt nhà thường ở lại xem quang cảnh tòa nhà bốc cháy, và qui trình chuẩn đòi hỏi phải ghi hình những kẻ đến xem.

Gil gật đầu. “Họ đã được ghi hình dưới mọi góc độ. Chuyên viên chụp ảnh cũng sẽ lo vụ đó tại dám tang”.

“Tốt. Tôi muốn đội xử lý tang vật vào cuộc ngay đêm nay. Hãy bảo đảm điền đầy đủ vào sổ theo dõi việc phát hiện, lưu giữ tang vật và hoàn thành bản kiểm kê tại phòng kiểm nghiệm trước khi phân tích. Bảo mọi người làm ngoài giờ và đặt vụ này vào diện ưu tiên một. Không được cho ai ra hoặc vào. Tôi muốn nhân viên trực phải đóng chốt tại đây cho đến khi tôi cho phép giải phóng hiện trường”.

“Vậy có ai cần đến một cảnh sát không?”

Cort dứng lên quay người lại và nhìn thấy Terri Vincent đứng cách đó vài bước. “Cô làm gì ở đây vậy?”

“Tôi nghĩ nên ghé qua xem bên các ông có tiến triển được gì không”. Cô đưa mắt nhìn sang Gil. “Người của anh có tìm thấy vật gì giống như chiếc gậy đánh bóng chày hoặc một cái chân bàn không?”

“Chưa đi xa đến thế, thưa cô”. Có ai đó gọi, và Gil xin lỗi để đi ra.

Cort nhìn cô gái tóc nâu cao gầy đang cẩn thận bước qua những thanh xà đến bên các khung nhôm làm giá đỡ đã nám đen màu khói. Ông vẫn nhớ như in những ý kiến thẳng thừng của cô ta lúc ở đồn cảnh sát, và nghi ngờ không biết cô ta đến đây để phối kiểm việc điều tra hay để nói chuyện với ông. “Cô đang tìm gì vậy?”

“Công cụ giết người. Thông tin chính thức: có ai đó đã đập vỡ đầu nạn nhân trước khi đốt cháy chỗ này. Rất có thể chúng còn để lại vật gì đó”. Cô bước quanh các giá đỡ rồi chợt chỉ tay về phía cầu thang dẫn lên tầng hai. “Tôi có thể lên đó xem được chứ?”

“Tôi sẽ đi với cô”.

Ông theo cô lên cầu thang đến chỗ gian gác xép dùng làm kho, nơi các vết cháy âm ỉ để lại một bầu không khí ngột ngạt mờ mịt. Nước cứu hỏa vẫn nhỏ giọt từ các mảnh trần còn chưa đổ xuống. “Có tin gì của Jean-Del chưa?”

“Chưa”.

Ông nhìn cô bước quanh đường biên trắng được dùng để đánh dấu nơi đã tìm thấy xác Marc LeClare. Cô đã thay cái áo khoác mặc khi bị ông dồn ở bãi đỗ xe của đồn cảnh sát, và chiếc áo choàng trắng cô đang mặc trông nhàu nhò xấu xí. Mái tóc sẫm của cô trông như ổ chuột. Vẻ mệt mỏi khiến gò má cô như nhô cao hơn.

Cort chưa bao giờ tỏ ra thiện cảm với Terri Vincent, có thể vì cái tài năng bẩm sinh của cô có thể đi guốc trong bụng ông chỉ sau sáu mươi giây nói chuyện. Nhưng cô ta là một cảnh sát giỏi và có thể là người bạn thân nhất của em trai ông.

“Nếu đây là máu – cô quì xuống khom người gần như chạm mũi vào những vết đen lợn cợn khó thấy dưới một đám tro ướt – thì ông ta đã bị giết ở đây”.

“Giám định pháp y sẽ cho kết quả từ việc phân tích các vết này và những dấu văng tóe quanh đây”, ông quan sát đôi tay cô – vốn cũng dài và thanh nhã như người cô – nhưng cô không động tay vào bất cứ vật gì ở đó.

Cô đứng lên dưa mắt quét qua khu vực sát ngay ngoài đường vạch trắng rồi nghiêng đầu nhìn lên. “Hắn đến phía sau lưng ông ta, có lẽ từ chỗ kia”. Cô chỉ tay vào đống thùng gỗ thưa đã cháy sém song ít nhiều cũng còn xếp chồng lên nhau khá ngay ngắn.

Một nhân viên của Cort xuất hiện trên đầu cầu thang. “Gil nói có lẽ ông nên xem cái này, thưa sếp”. Anh ta đưa ra một túi tang vật lớn vứi phần còn lại của một chiếc cặp đàn ông bằng da bên trong. “Cái cặp rỗng không, có thể nhìn rõ mấy chữ lồng ở trên đó. Các chữ đầu là MAL, tên của Marc LeClare”.

Cort cầm lấy cái túi và xem xét chiếc cặp da. Mọi thứ đều đã được lấy đi ngoại trừ hai đồng xu kẹt ở ngăn túi bên. Ông đưa trả cho nhân viên kỹ thuật. “Chú ý xử lý thật kỹ cả trong lẫn ngoài để tìm dấu vân tay”.

“Vâng, thưa sếp”. Nhân viên kỹ thuật đi ra.

Terri chậm rãi bước đi quanh đường viền trắng. “Phải, kẻ sát nhân đã đánh mạnh vào đầu ông ấy, ông ta quỵ xuống, hắn đánh thêm vài cú nữa. Rồi Isabel bước vào, hắn đánh cô ấy hai lần, sau đó phóng hỏa đốt nhà và để cô ta lại cho cháy thiêu cùng với Marc”.

“Hắn ta đã ra ngoài đến con phố phía sau để ném ba chai bom xăng còn lại vào qua cửa sổ”. Cort đến bên phía chân đường vạch trắng và cúi xuống. Ông nhìn lần lượt hai bên rồi đứng lên đi thẳng đến chỗ đống gỗ ngổn ngang.

“Tại sao hắn để cô ấy sống?” Terri nôi bước theo ông. “Hắn đã giết Marc rồi, tại sao hắn không đập chết luôn cô ấy?”

“Có thể hắn nghĩ cô ta đã chết”.

Terri đến bên cửa sổ nhìn xuống đường rồi quay lại nhìn ông. “Hắn đã đập vào đầu Marc đến phọt óc nhưng chỉ đánh Isabel vài cú khá nhẹ nhàng? Nghe không có lý lắm”.

“Có thể lúc ấy hắn đang vội”.

“Chúng tôi tìm được vài thứ ở đây”. Gil bước lên cầu thang và đưa cho Cort một túi tang vật nhỏ hơn. “Phần còn lại của chiếc chìa khóa trên ổ khóa cửa vào phía trước. Có vẻ như nó bị bẻ gãy”.

Terri nhìn xuống cầu thang. “Khi người của anh đến đây cửa trước vẫn đang bị khóa phải không?”

Gil gật đầu. “Họ phải phá cửa để vào”.

“Vậy là hắn đã nhốt cô ta lại, thằng chó đẻ”. Cô thở hắt ra. “Như thế đây là một vụ cố sát đã hoàn thành và một vụ mưu sát không thành”.

Cort nhìn đống gỗ và bước đến bên. Ông rút khăn tay trong túi lót vào tay trước khi nắm và kéo ra một thanh gỗ thông dài khá nặng. Thanh gỗ chỉ bị cháy nhẹ, trên một đầu vẫn còn dấu những mảnh vụn và những vệt đen dọc theo thớ gỗ.

Terri và Gil bước đến bên, mắt dán vào thanh gỗ. “Khốn kiếp”.

Cort nhìn mặt cô. “Đây là công cụ giết người mà cô vừa nói phải không?”

“Có thể. Sable có những vết thương do tự vệ – những vụn gỗ trong lòng bàn tay”. Cô day nhẹ môi dưới. “Gray Huitt còn phát hiện các vụn gỗ trong cả óc của Marc nữa”.

Gil cầm thanh gỗ bằng bàn tay đeo găng của mình, lật ngược lại để xem xét cạnh sắc của nó. “Có vẻ như một thứ công cụ gây án thật, nhưng là thứ lần đầu tiên tôi thấy”.

“Đây là cái gậy cạy hàu”. Cô gặp ánh mắt của Cort. “Nó quả thật rất vừa tay khi đi cạy hàu dưới biển”.

***

Không khí lạnh khiến Sable run rẩy khi đứng lên cùng với Jean-Del. Đôi chân như muốn sụm khi nàng gắng đứng thẳng lên nhưng anh đã vòng tay giữ không để nàng khụy xuống. “Ta sẽ không quay ra đường cái”, anh nói, vừa đưa mắt nhìn khắp xung quanh. “Kẻ nào đó có thể vẫn chờ chúng ta ở đấy”.

“Nhưng ta cũng đâu có thể ở lại chỗ này”. Nàng gỡ một nùi rong bám sau cổ áo vứt đi. “Chưa kể rắn rết chuột bọ, nhiệt độ đang xuống rất nhanh, có vẻ trời đang muốn mưa lại trước khi rạng sáng đấy”.

Jean-Del kéo chiếc điện thoại đi động khỏi túi áo nhấc lên và nhìn nước nhỏ ra từ góc cái túi da bọc nó. “Điện thoại hư rồi”.

Nàng đưa mắt nhìn quanh để định hướng và trông thấy con đường mòn từ bến tàu của Gantry dẫn ra phía rừng bách. “Em biết một chỗ gần đây ta có thể ở nhờ qua đêm được”.

“Ở đâu?”

“Em họ của bà em sống cách đây chừng phần tư dặm”. Nàng leo lên một gò đất và quay người lại khi không thấy anh đi theo. “Họ sẽ giúp chúng ta, Jean-Del”.

“Như kiểu Gantry đã giúp em sao?”

Sự e ngại của anh cũng dễ hiểu, nhưng nàng đã quá mệt, lại ướt đẫm và lạnh cóng, sẵn lòng cuộn tròn trên ổ rơm trong hang chuột cũng cam. “Caine không phải là gia đình em, còn nhà Martin thì có”. Nàng chìa tay ra. “Đi nào”.

Sau một khoảng yên lặng khá lâu, anh cầm lấy tay nàng và theo nàng đi vào rừng cây.

Nàng dừng lại một lần để kéo lại đôi giày tả tơi che hai bàn chân trần. May mà con đường đã mòn phẳng sau khi được bao thế hệ phụ nữ nhà Martin qua lại từ nhà xuống bến để chờ cánh đàn ông theo thuyền cá trở về. Anh nhìn nàng. “Em có muốn mang giày của anh không?”

Nàng nhìn chân anh thấy chúng to gần gấp hai mình. “Không, cảm ơn anh, chân em nhỏ quá”. Khi ngước lên, một cơn đau như mũi tên chợt nhói lên trong phía vai phải khiến nàng thở hắt ra. “Sáng nay chắc em trông như quả cà chua dập”.

“Cố lên”. Anh vòng tay quanh eo dìu nàng và họ lại đi tiếp. “Có còn xa lắm không?”

Nàng nhìn chăm chú qua màn đêm và nhận thấy có ánh đèn nhấp nháy đằng xa. “Gần đến rồi”.

Nhìn thấy hình dáng ngôi nhà quen thuộc mái dốc phủ rêu phong khiến Sable như muốn khóc. Như phần lớn những người cao tuổi ở Atchafalaya, ông bà Martin sống trong một ngôi nhà nhỏ làm từ cây rừng tự nhiên được đốn hạ cưa xẻ nhờ sự giúp đỡ của gia đình và bà con hàng xóm. Các súc gỗ bách nặng giữ cho ngôi nhà cao quá mặt đất chừng hai bộ để phòng ngừa lũ lụt cùng cái nóng và đám côn trùng. Theo thời gian và mưa nắng những súc gỗ đã nứt nẻ trông cũng cổ xưa thô kệch như hàng cây lặng lẽ quanh nhà.

Một ngọn đèn gần cửa sổ trước tỏa ánh sáng màu vàng xuống các bậc đá dẫn đến chỗ hiên nhà quét sơn trắng. Có làn khói nhẹ trôi ra từ chiếc ống khói làm bằng đá và đất sét phía sau nhà. Hai cái ghế dựa bằng gỗ đẽo nằm ở hàng hiên cạnh cửa trước, trên một chiếc có con mèo hung cuộn tròn đang ngon giấc.

Một ông lão người thấp đậm dáng mạnh khỏe mở cửa gần như ngay sau khi Jean-Del vừa gõ và nhìn ra qua khoang cửa hẹp bằng đôi mắt mở to. “Ai đấy? Các vị cần gì?”

“Cháu là Isabel đây ạ”. Nàng bước ra chỗ sáng để ông lão có thể trông rõ mặt mình và mỉm cười. “Ông ơi,chúng cháu bị nạn. Chúng cháu có thể ở nhà ông bà đêm nay được không ạ?”

“Ồ, được chứ P, cháu vào đi”. Ông lão mở rộng cửa. “Sao cháu ướt thế? Bị rơi xuống sông à?”

“Cũng gần như thế”. Nàng đưa mắt nhìn Jean-Del, thoáng buồn và nói tiếp. “Đây là anh Jean-Delano Gamble… bạn của cháu”.

Lão Martin nhìn anh, vẻ nghi ngờ. “Anh đã ném Isabel xuống nước hả?”

“Không phải đâu, ông ơi”. Jean-Del nói với vẻ mặt ngay thực. “Chính cháu đã câu được cô ấy từ dưới nước lên đấy”.

Ông lão khịt mũi bật cười tán thưởng rồi đưa họ vào nhà.

Bên trong nhà Martin trông cũng tuềnh toàng đơn giản. Phần lớn đồ gỗ trong nhà đều do lão Martin tự tay làm từ các cây bách mọc quanh nhà, song cũng có vài món cổ vật gia truyền làm từ gỗ anh đào còn sót lại qua thời đại loạn – khi các tổ tiên người Acadia của ông dạt từ Nova Scotia đến Louisiana do bị người Anh trục xuất vào năm 1775. Một bức họa đơn sơ chân dung chính các vị tiền bối ấy chiếm vị trí trang trọng giữa các bức ảnh được lồng khung của Chúa Jesus và Đức mẹ đồng trinh.

Bà Colette, vợ ông lão Martin, đi ra phòng trước, vừa lau tay trên tấm tạp dề. Khác với ông chồng, bà cao và rất gầy với mái tóc gọn gàng màu xám bạc. “Isabel! Lạy Chúa tôi, cháu làm gì ở đây giữa đêm hôm thế này chứ?”

Sable giải thích trong khi bà Colette xăng xái đem khăn tắm, pha trà nóng và săn sóc hai người. Sau khi bà Colette tính sẽ tìm quần áo phù hợp để cả hai thay, Jean-Del tìm cách kể lại vắn tắt những gì đã xảy ra. Sable nhận thấy anh không nhắc gì đến vụ giết hại Marc, vụ lấy trộm xe, chuyện họ bị bắn, và nàng biết ơn anh về điều đó. Không cần phải làm cho hai ông bà lão lo sợ, và nàng tự nhủ không biết họ có cảm tình với Jean-Del đến thế không nếu biết anh là cớm.

“Này cháu”. Bà Colette nói khi đưa cho Sable xấp quần áo. “Cháu vào nhà tắm tắm đi, rồi đến lượt anh ấy”. Bà đưa mắt nhìn Jean-Del ước lượng. “Ông chồng tôi không to lớn như anh, may có chiếc quần jean của thằng cháu để lại chắc vừa”.

Sable cảm thấy dễ chịu hơn sau khi tắm rửa và bận chiếc áo ngủ bà Colette đưa, nhưng cánh tay và vai nàng vẫn đau, ngoài ra còn có một chỗ đau nào đó phía sau lưng mà nàng không với tới được. Nàng ra ngoài để nhờ bà Colette kiểm tra hộ và nghe ông lão Martin đang nói với Jean-Del, “Ở đây không có điện thoại nhưng sáng mai có thể lại đằng kia gọi nhờ chỗ nhà của cháu ông”.

“Cậu em họ của em có một cửa hàng nhỏ cạnh dường cái”. Sable nói thêm và chợt nhăn mặt khi gắng kéo sợi dây áo choàng qua vai khiến một cơn đau nhói thốn dọc tay nàng.

Jean-Del vụt đứng lên. “Em bị sao thế?”

“Chắc em bị trật khớp vai. Có cảm giác đau ở đâu đó sau lưng nữa”. Nàng cẩn thận xoay người, hơi nhăn mặt. “Để em bảo bà xem hộ”.

“Bà đang giặt đồ cho em”. Anh đến bên nàng. “Để anh coi nào”.

Nàng đưa anh quay lại căn phòng nhỏ rồi gỡ dây đeo áo, quay lưng lại phía anh và cởi khuy chiếc áo ngủ. “Ngay dưới bả vai bên phải ấy”.

Anh kéo mảnh vải áo xuống đến khi lộ ra phần trên mông nàng và thốt lên rất khẽ. “Em có mấy vết trầy xước thật khủng khiếp”. Anh mở nhanh chiếc hộp cứu thương cũ kỹ bằng thiếc để cạnh bồn rửa, lục tìm trong đó và lấy ra một lọ màu nâu cùng với mấy cây tăm bông. “Sẽ rất xót đấy”.

“Em đã phải chịu đủ mọi thứ tệ hại nhất rồi”. Nàng hít một hơi xuýt xoa khi chất khử trùng lạnh buốt chạm vào vết thương và cơn đau vụt nhói trên lưng, “ôi, em xạo đấy”.

Anh xát nhẹ và đặt tay lên vai khi nàng chùng xuống. “Anh biết sẽ khá đau nhưng em cố ngồi yên đi. Anh phải rửa cho sạch đã”. Anh xử lý vết thương thật nhanh chóng và nhẹ nhàng rồi quay nàng lại. “Em thử giơ tay lên được không?”

Nàng đưa cánh tay phải lên và bật rên khi cơn đau nhói buốt dội trong vai. “Được, nhưng đau lắm”. Khi hạ tay xuống nàng chộp vội để giữ vạt trước chiếc áo ngủ khi nó còn chưa tụt xuống quá ngực. Các ngón tay nàng chạm vào tay anh, mặt nàng vụt nóng rực. “Xin lỗi, em không cố ý”.

Anh lặng nhìn làn da trắng hồng hiện giữa hai người, mắt như mờ đi. “Còn anh thì có đấy”. Các ngón tay anh trượt dần xuống và mơn man trên đầu núm một bên ngực căng tròn của nàng.

Miệng anh khô đi trong khi hai nụ hoa nàng cứng đanh dần dưới làn áo mỏng. Nàng kéo các đầu dây áo quấn lại quanh mình. “Giờ em phải ra để anh đi tắm”.

Khi nàng còn chưa đến cửa anh đã kịp giữ lấy eo nàng và dặn. “Đừng đi bất kỳ đâu mà không có anh”, anh nói. “Anh mệt lử do phải lùng theo em khắp đồng lầy rồi dấy”.

Nàng gật đầu và bước ra ngoài.

***

Cái quán bên đường ấy nhỏ xíu lọt thỏm giữa khu nhánh sông chuyên cung cấp đồ ăn thức uống cho các ngư dân, cánh tài xế xe tải và bất kỳ ai quan tâm đến bia lạnh, tôm nóng, những trò bài bạc nghiêm chỉnh hoặc phóng phi tiêu. Những phụ nữ duy nhất hay vãng lai thường đến đây cùng với chồng, với bạn trai hoặc để tìm kiếm những mối quan hệ nhất thời. Những câu đùa tục tĩu, các lý lẽ ồn ào, tất cả đều chỉ bằng tiếng Pháp.

Có thể khách du lịch đi ngang trên đường đến New Orleans dự lễ hội Mardi Gras không thấy có gì hấp dẫn lắm nhưng nếu ai đó muốn biết chuyện gì đang xảy ra ở vùng nhánh sông này thì đây là nơi có thể nhận được nhiều tin cốt yếu nhất.

Nhiều ánh mắt hướng sang khi Terri Vincent bước vào cho đến khi cô được chủ quán nhận ra và bước tới hỏi han chuyện nước nôi ăn uống và than van về đám du khách. Terri lớn lên cách đây vài dặm, và trong khi chỉ một số ít dân địa phương tán thành công việc của cô, cô vẫn được chấp nhận theo cách mà chỉ người dân bản địa mới có được.

Cô dừng lại đưa mắt nhìn quanh trong quán cho đến khi nhận ra kẻ mình cần đang ngồi trong một góc tối cạnh quầy rượu. Đôi mắt đen vô định của ông ta nhìn cô hồi lâu cho đến khi cô ngồi xuống chiếc ghế trống kế bên, vẫn không tỏ một ý gì chào hỏi. “Này, ông bạn đẹp trai”. Cô huých nhẹ khủy tay vào ông. “Khao tôi một ly đi”.

Caine Gantry không rời mắt khỏi ly bia trước mặt. “Tại sao, cô phá sản rồi ư?”

“Thì tôi mừng gặp lại ông vậy, được chứ. Vậy để tôi đãi ông một ly”.

Terri nháy mắt với người bán ở quầy, chỉ vào chai của Caine và đưa hai ngón tay. “Ông làm gì ở đây thế?”

Caine hơi quay người lại và gác một chân lên thanh ngang dưới ghế cô. “Bộ có luật mới cấm tôi uống bia sau giờ làm sao?”

“Không, có điều ông không thuộc loại thích uống bia giữa những người chẳng mấy thân thiết, ông ưa thù tạc ở nhà hơn”. Cô rút túi ra một bao thuốc, lật lật trên tay, rút ra một điếu và thảy bao thuốc lên mặt quầy. “Tôi đang bỏ thuốc”.

Caine cầm điếu thuốc từ tay cô, châm lửa, rít một hơi rồi đưa trả. “Bỏ hẳn chưa?”

“Cũng không dễ”.

“Vậy thì dừng bỏ”. Ông nâng ly bia lên miệng. “Khỏi phải quàng dây buộc cổ”.

“Đây, cô Terri”. Cô phục vụ quầy tên là Deidre đem đến hai chai bia và cái gạt tàn sạch. Ánh sáng đèn neon nhấp nhoáng trên quầy tạo nên những dải màu trên món tóc nhuộm của cô ta. Cô đặt hai chai bia lên mặt quầy, cầm chỗ tiền trà nước gấp lại nhét vào khe áo xẻ sâu trước ngực. “Một đêm cuối tuần hội tụ hay sao đây, đã lâu lắm chẳng thấy ai trong hai vị cả”.

“Chắc tại bọn này quá bận”. Terri đưa mắt nhìn người đàn ông kế bên trước khi nâng chai bia uống một ngụm. “Cảm ơn, Dee”.

“Cô bị dính bẩn trên mặt kìa, cưng ơi. cần gì cứ gọi tôi nhé”. Deidre rời họ đi đến chỗ hai người khác đanggọi.

“Khốn thật”. Terri đưa mắt liếc mình trong gương rồi vớ tấm khăn ăn chùi vết lem trên mặt. Cô cần phải tắm rửa. Mùi khói chỗ căn nhà cháy vẫn ám vào quần áo cô. “Tôi chúa ghét mấy vụ cháy”.

Caine bắt gặp ánh mắt cô trong gương. “Cô muốn gì vậy, Therese?”

Terri kéo một hơi từ điếu thuốc của ông ta. “Vài câu hỏi thôi, cưng . Bắt đầu từ chỗ ngày hôm nay ông đã ở những đâu?”

“Ngoài biển”.

“Ông không ngẫu nhiên có mật chỗ khu nhà kho trong thành phố chứ?” Khi ông ta lắc đầu, cô uống thêm một ngụm bia nữa. “Có ai đó đã ở đấy. Ai đó đã đốt căn nhà cũ của LeClare, có cả LeClare cùng một phụ nữ bên trong, tôi nghĩ ông đã biết chuyện đó”.

Ông gật đầu.

“Ông biết người phụ nữ đó – cô Sable Duchesne”. Cô bắt được vẻ ủ ê mệt mỏi trên mi mắt ông và thoáng thấy bàn tay ông nắm chặt mép quầy. “Theo ông tại sao cô ta lại ở trong một gian nhà trống với viên thống đốc tương lai của bang Louisiana vậy?”

Ông nhún vai. “Có thể cô ta ngưỡng mộ những bài diễn văn tranh cử của ông ta”. Ông đưa tay lấy chai bia, ánh sáng làm lộ ra vẻ méo mó của bàn tay ấy.

“Ôi ghê quá”. Cô đưa đầu ngón tay chạm lên mấy khớp ngón tay sưng phồng vặn vẹo ấy trước khi ông rụt tay về. “Gã nọ trông như thế nào?”

“Quá tệ”. Ông nốc cạn chai bia sau hai hơi và rút ví trả tiền thức uống. “Tôi phải về đây”.

Cô thở dài. “Nghe này, ông bạn. Tôi đã có một ngày dài dặc và tệ hại. Hình như ông cũng vậy. Đừng làm cho mọi chuyện đã khó càng khó thêm”.

“Tôi đi biển từ sáng sớm đến tối mịt. Hỏi mọi người quanh đây đi”. Ông hất đầu về phía đám đàn ông đang uống bia và chơi bài trong góc. “Vậy được chưa?”

Cô thở dài đứng lên. “Chắc tôi phải xắn tay áo lôi con lừa to xác này xuống phố mất thôi”.

Ông nhìn cô u ám. “Cô cứ thử xem”.

“Có thể sáng mai, sau khi tôi ăn món tăng lực của mình”. Cô vỗ vai ông ta. “Ông hay người của ông có ai thấy anh bạn đồng sự của tôi hoặc cô Sable Duchesne ở đâu đó quanh đây không?”

“Không”. Caine nhét cái ví vào sau chiếc quần jean. “Hẹn gặp lại cô quanh đây, cưng”.

***

Billy nhìn Caine bỏ đi và dõi theo thật lâu chiếc xe của ông ta trên con dường dẫn về nhà. Mình không thể đến gặp Caine, chưa thể được. Cho đến khi nhận xong tiền.

Tay cớm và con bé ấy chắc chắn đã chết. Chiếc xe đã lật nghiêng khi lao thẳng xuống sông. Thậm chí nếu chưa bị Billy bắn trúng họ cũng chết đuối rồi.

Gã phóng xe đến trạm điện thoại đầu tiên gặp được.

“Họ chết rồi. Không, tôi chưa về nhà – tôi phải đi ăn mừng đã. Tối mai nhớ đến đúng giờ đấy”.

Bình luận
Ads Footer