NÊN sao chép, chia sẻ, KHÔNG NÊN thương mại hoá.

Ngôi Nhà Quái Dị

Chương 14

Tác giả: Agatha Christie
Ads Top

Có tiếng thì thầm nói chuyện từ phòng khách lớn. Tôi do dự nhưng không đi vào. Tôi thơ thẩn trên hành lang, theo một thôi thúc nào đó, tôi đẩy một cánh cửa có bọc len tuyết. Hành lang bên ngoài thì tối, nhưng bên trong cửa là một gian nhà bếp lớn sáng choang. Một người đàn bà đứng trên lối vào cửa – một người đàn bà lớn tuổi khá to con. Bà mang chiếc tạp dề trắng sạch thắt quanh hông. Lúc tôi nhìn thấy bà tôi biết mọi sự đều thuận lợi. Đó là cái cảm giác mà bà Nannie tốt bụng luôn mang đến cho bạn. Tôi ba mươi lăm tuổi, nhưng trước bà tôi cảm thấy mình chỉ là đứa trẻ bốn tuổi.

Theo như tôi biết, Nannie chưa hề gặp tôi, nhưng bà nói ngay:

“Cậu là cậu Charles, phải không? Vào bếp đi, tôi sẽ đãi cậu một tách trà.”

Đúng là nhà bếp mang lại cảm giác dễ chịu. Tôi ngồi gần cái bàn trung tâm, Nannie mang đến cho tôi một tách trà và hai chiếc bánh quy ngọt để trên dĩa. Tôi cảm thấy như thể mình lại đi nhà trẻ. Mọi thứ đều ổn – nỗi sợ hãi bóng tối và cái chưa biết không còn nữa.

“Cô Sophia sẽ rất vui khi thấy cậu đến,” Nannie nói. “Cô ấy đang quá xúc động.” Đoạn không cố ý, bà nói thêm: “Tất cả mọi người đều quá xúc động.”

Tôi ngoái nhìn qua vai.

“Josephine đâu rồi? Nó vào cùng với tôi.”

Bà Nannie, tặc lưỡi có vẻ không vừa ý. “Đứng nghe lén ngoài cửa và viết gì đó trong cuốn sổ tay nhỏ mà nó luôn mang theo chứ đâu,” Nannie nói. “Nó phải đi học và chơi đùa với bọn trẻ cùng lứa tuổi mới được. Tôi đã nói thế với bà Edith và bà đã đồng ý – nhưng ông chủ cho rằng nó học ở nhà tốt hơn.”

“Tôi cho rằng ông chủ rất thương nó,” tôi nói.

“Đúng vậy. Ông chủ đã thương yêu tất cả mọi người.”

Tôi có vẻ hơi kinh ngạc, tự hỏi tại sao tình thương của Philip dành cho con cái lại đặt chính xác ở thì quá khứ. Bà Nannie trông thấy biểu hiện của tôi và hơi đỏ mặt, bà nói:

“Khi tôi nói ông chủ, ý tôi là lão gia Leonides.”

Tôi chưa kịp đỡ lời bà thì cánh cửa chợt mở và Sophia bước vào.

“Ồ, Charles,” nàng kêu lên, sau đó nói nhanh: “Nannie, cháu mừng vì anh ấy đã đến.”

“Dì biết, cháu yêu.”

Bà gom nồi niêu xoong chảo đem vào phòng rửa bát. Bà đóng cửa lại.

Tôi đứng dậy rời khỏi bàn, đến bên Sophia. Tôi đưa hai tay ôm lấy nàng và giữ chặt.

“Cưng ơi,” tôi nói. “Em đang run rẩy. Chuyện gì thế?”

Sophia đáp:

“Em sợ quá, Charles ơi. Em sợ.”

“Anh yêu em,” tôi nói. “Giá anh có thể đưa em đi…”

Nàng giang ra khỏi tôi và lắc đầu.

“Không, không thể. Chúng ta cần phải biết. Nhưng như anh thấy đấy, Charles, em không thích điều đó. Em không thích cảm thấy một người nào đó – một người nào đó trong nhà này – một người em gặp và nói chuyện mỗi ngày lại là kẻ đầu độc máu lạnh, có tính toán.”

Tôi không biết nên trả lời thế nào. Với một người như Sophia, người ta không thể cho những lời đảm bảo vô nghĩa.

Nàng nói: “Giá mà biết…”

“Đó hẳn là điều tồi tệ nhất,” tôi đồng ý.

“Anh có biết điều gì thật sự làm cho em sợ không?” nàng thì thầm. “Chính là chúng ta có thể không bao giờbiết…”

Tôi có thể hình dung một cơn ác mộng là như thế nào… Và theo tôi dường như rất có thể sẽ không bao giờ biết được ai là người giết ông lão Leonides.

Nhưng nó cũng nhắc cho tôi nhớ mình muốn hỏi Sophia về một mấu chốt mà tôi đã để ý.

“Nói cho anh nghe đi, Sophia,” tôi nói. “Bao nhiêu người trong nhà này biết về thuốc nhỏ mắt eserine – anh muốn nói là (a) ông nội em có thuốc này, và (b) nó rất độc và cần liều lượng bao nhiêu thì nó có tác dụng chết người?”

“Em thấy anh dần nắm được vấn đề rồi đó, Charles. Nhưng không giúp ích gì đâu. Anh biết không, mọi người trong nhà đều biết.”

“À, anh cho rằng biết một cách mơ hồ, chứ còn biết cụ thể…”

“Cả nhà đều biết cụ thể. Một ngày nọ, sau bữa ăn trưa, cả nhà cùng với ông nội dùng cà phê. Anh biết mà, ông nội thích cả nhà quây quần bên ông. Mắt của ông làm ông rất khó chịu. Bà Brenda lấy eserine nhỏ vào mỗi mắt ông một giọt, còn Josephine, nó luôn đặt các câu hỏi về mọi chuyện, nó hỏi: tại sao lại viết – ‘Thuốc nhỏ mắt – không được chích’ trên chai. Ông nội mỉm cười và nói: ‘Nếu một ngày nào đó, bà Brenda bị nhầm lẫn, chích thuốc nhỏ mắt cho ông thay vì insulin – ông đồ rằng ông sẽ bị sốc nặng, mặt mày tái xanh và sau đó sẽ chết, bởi vì như cháu thấy đấy, tim ông không khỏe lắm.’ Josephine kêu lên: ‘Ồ.’ Rồi nội nói tiếp: “Do vậy chúng ta phải cẩn thận đừng để cho Brenda chích nhầm eserine thay vì insulin, phải thế không?’” Sophia dừng lời, đoạn nói: “Cả nhà đều nghe ông nói. Anh hiểu không? Cả nhà đều nghe!”

Tôi đã hiểu. Tôi đã có một ý nghĩ mơ hồ ở trong đầu rằng chỉ cần một chút hiểu biết cụ thể thôi cũng đủ xài rồi. Nhưng giờ xảy ra tình huống ông lão Leonides đã cung cấp phương pháp giết người cho kẻ giết ông. Hung thủ không cần phải nghĩ đến lập sơ đồ, lên kế hoạch hay sáng chế gì gì. Một phương pháp dễ dàng, đơn giản làm nên cái chết đã được chính nạn nhân cung cấp.

Tôi hít mạnh một hơi. Hiểu ý tôi, Sophia nói: “Thật khủng khiếp, phải không anh?”

“Em biết không, Sophia,” tôi nói chậm rãi. “Chỉ có một điều làm anh ấn tượng.”

“Điều gì?”

“Là em có lý, rằng đó không phải bà Brenda. Bà ta không thể thực hiện đúng theo cách đó – khi cả nhà cùng nghe – cả nhà cùng nhớ.”

“Em không biết. Bà ta khá ngu xuẩn, anh biết mà.”

“Không phải là ngu xuẩn trong mọi chuyện đâu,” tôi nói. “Không, không thể là Brenda.” Sophia rời khỏi tôi.

“Anh không muốn đó là Brenda, phải thế không?”

Tôi có thể nói gì đây? Tôi không thể – không, tôi không thể – đành nói: “Đâu phải, anh mong đó Brenda.”

Tại sao tôi lại thế? Vì cảm thấy Brenda đơn độc một bên, và bên kia là sự thù ghét của cả gia đình quyền lực Leonides tập trung chống lại bà. Mình là hiệp sĩ chăng? Bảo vệ kẻ yếu đuối hơn? Kẻ vô phương tự vệ? Tôi lại nhớ bà ngồi trên tràng kỷ với cái vẻ bi lụy, giọng nói tuyệt vọng – đôi mắt sợ hãi.

Nannie tình cờ quay lại từ phòng rửa bát. Tôi không biết nhờ đâu bà cảm thấy có một sự căng thẳng nào đó giữa tôi và Sophia.

Bà nói vẻ không bằng lòng:

“Cứ nói mãi về chuyện giết người. Hãy quên đi. Để cho cảnh sát lo. Đó là công việc khó chịu của họ, không phải của cô cậu.”

“Ôi, Nannie – bộ dì không hiểu rằng phải có ai trong nhà này là kẻ sát nhân…”

“Thật vô lý, cô Sophia. Tôi không thể chịu nổi cô. Chẳng phải cửa trước mở suốt – tất cả các cửa đều mở, không cửa nào bị khóa – mời kẻ cắp, bọn trộm đến hay sao?”

“Không thể nào là trộm, không vật gì bị mất. Hơn nữa, tại sao trộm lại vào và đầu độc ai đó?”

“Cô Sophia, tôi không nói đó là một tên trộm. Tôi chỉ nói mọi cửa đều mở. Bất cứ ai cũng có thể vào. Nếu cô hỏi tôi thì đó là bọn ăn mày.”

Nannie gật gật đầu vẻ hài lòng.

“Vậy tại sao ăn mày lại muốn giết ông nội tội nghiệp của tôi?”

“Vì bọn họ là những kẻ ở tận đáy xã hội. Nhưng nếu không phải ăn mày, hãy nhớ lời tôi, là những tên Công giáo.”

Với cái vẻ là người nói sau cùng, Nannie lại biến vào phòng rửa bát.

Sophia và tôi bật cười to.

“Đúng là Bà Da đen Tin Lành.”

“Bà ta chẳng thế là gì? Thôi nào, Charles, chúng ta vào phòng khách đi. Ở đó có cuộc họp gia đình. Tính họp vào buổi chiều – nhưng sẽ bắt đầu sớm hơn.”

“Tốt hơn anh không nên xía vào, Sophia à.”

“Nếu anh định làm rể trong gia đình này, tốt hơn anh nên chứng kiến sự thể khi ngửa bài.”

“Họp về chuyện gì?”

“Chuyện làm ăn của bác Roger. Dường như anh đã rõ tất cả rồi mà. Nhưng có điên mới nghĩ bác Roger đã giết ông. Tại sao chứ, bác Roger rất tôn kính ông.”

“Anh thật sự không nghĩ bác Roger giết ông nội. Clemency thì có thể.”

“Chỉ tại vì em gieo nó vào trong đầu anh. Nhưng anh cũng lầm nốt. Em không cho rằng Clemency quan tâm tí gì đến việc bác Roger có mất hết tiền bạc không. Em nghĩ lúc này bác gái khá hài lòng. Bác gái có một loại đam mê kỳ lạ là không có đồ đạc. Chúng ta đi nào.”

Khi tôi và Sophia vào phòng khách, những tiếng nói ngưng ngay lập tức. Mọi người nhìn chúng tôi.

Tất cả đều ở đây. Philip ngồi trong chiếc ghế dựa có tay đỡ to lớn bọc gấm thêu kim tuyến màu gạch tôm nằm giữa hai cửa sổ, gương mặt đẹp của ông mang vẻ lạnh lùng, nghiêm khắc. Ông trông giống một quan tòa sắp sửa tuyên án. Roger ngồi trên tấm nệm dày gần lò sưởi. Ông dùng các ngón tay cào mạnh mái tóc đến đỗi tóc ông dựng đứng cả lên. Ống quần ông nhăn nhó, cà vạt thì xộc xệch. Ông trông có vẻ hơi căng thẳng và sẵn sàng tranh cãi. Clemency ngồi cách xa ông, cái dáng nhỏ nhắn của bà trông có vẻ nhỏ nhắn hơn so với cái ghế dựa to lớn. Bà không nhìn ai và như đang nghiên cứu các bức vẽ trên tường với cái nhìn thản nhiên. Bà Edith ngồi thẳng lưng trong ghế dựa của ông nội. Bà đang cặm cụi đan, môi bà mím chặt. Cái đẹp đáng nhìn nhất ở trong phòng là Magda và Eustace. Trông họ giống như một bức chân dung do Gainsborough[13] vẽ. Cả hai ngồi chung trên tràng kỷ – cậu bé đẹp trai với bộ mặt rầu rĩ, và bên cạnh cậu ta, Magda, nữ Công tước của Ba Đầu Hồi, mặc bộ váy bằng vải bóng như tơ lụa, một cánh tay gác dài lên lưng tràng kỷ, một bàn chân nhỏ nhắn mang đôi dép lê bằng gấm thêu kim tuyến thả lỏng trước mặt bà.

Ông Philip chau mày.

“Sophia,” ông nói, “cha rất tiếc, nhưng chúng ta đang bàn chuyện gia đình, chuyện mang tính chất riêng tư.”

Cặp kim đan của bà dì de Haviland kêu lách cách. Tôi định xin lỗi và rút lui. Sophia ngăn tôi lại. Giọng nàng rõ ràng và cả quyết.

“Charles và con,” nàng nói, “sẽ cưới nhau. Con muốn có Charles ở đây.”

“Tại sao lại không chứ?” Roger nói to, đứng bật lên khỏi tấm nệm với sức mạnh không ngờ. “Tôi đã nói với chú, ở đây không có gì riêng tư cả. Mai kia gì cả thế giới đều biết. Do vậy, chàng trai thân yêu của ta,” ông đến chỗ tôi và đặt bàn tay thân thiện lên vai tôi, “cậu biết tất cả. Sáng nay cậu đã ở đó.”

“Làm ơn nói cho tôi biết,” bà Magda chồm người tới trước và nói lớn. “Đây có phải là Scotland Yard không nhỉ? Người ta luôn thắc mắc. Một cái bàn? Ghế ngồi? Kiểu rèm nào? Không có hoa chứ, tôi cho là thế? Máy nghe lén?”

“Mẹ đừng nổi nóng lên như vậy,” Sophia nói. “Thế mà lúc nào mẹ cũng nói Vavasour Jones cắt cảnh Scotland Yard. Mẹ nói làm mất cao trào.”

“Họ làm thế cho giống một vở kịch trinh thám,” bà Magda nói. “Edith Thompson là một vở kịch tâm lý – hay một vở kịch tâm lý ly kỳ – con có thấy nghe hay hơn không?”

“Cậu đến đó sáng nay?” ông Philip sẵng giọng hỏi tôi. “Tại sao? Ồ, dĩ nhiên – cha cậu…”

Ông cau mày. Tôi hiểu rõ hơn bao giờ hết sự hiện diện của tôi không được hoan nghênh, nhưng bàn tay Sophia nắm chặt cánh tay tôi.

Clemency đẩy tới một cái ghế.

“Mời cậu ngồi,” bà nói.

Tôi nhìn bà biết ơn và ngồi xuống.

“Anh nói gì tùy thích,” bà dì de Haviland nói, chứng tỏ bà theo dõi tất cả những gì đang bỏ dở, “nhưng ta nghĩ chúng ta phải tôn trọng những nguyện vọng của Aristide. Nếu bản di chúc đem ra thi hành, Roger, dù ta được nhiều ít thế nào, phần thừa hưởng của ta con tùy nghi sử dụng.”

Roger cào mái tóc dữ dội.

“Không đâu dì Edith. Không!” ông kêu lên.

“Tôi ước mình cũng nói như thế,” Philip nói, “nhưng người ta phải cân nhắc mọi yếu tố…”

“Chú Phil thân mến, chú không hiểu sao? Tôi sẽ không lấy một xu của bất kỳ ai.”

“Tất nhiên anh ấy không thể!” Clemency ngắt lời.

“Dù sao, dì Edith,” Magda nói. “Nếu bản di chúc được thực hiện, Roger có phần thừa kế của anh ấy mà.”

“Nhưng giờ di chúc không thể thực hiện, thì làm sao?” Eustace hỏi.

“Con không biết chi về chuyện đó, Eustace,” Philip nói.

“Thằng nhỏ nói hoàn toàn đúng,” Roger kêu lên. “Nó nói đúng vấn đề rồi đó. Không gì ngăn cản được sự phá sản. Không gì.”

Ông nói với vẻ say sưa.

“Thật sự không có gì phải bàn bạc,” Clemency nói.

“Dù sao thì, chuyện này có gì quan trọng chứ?” Roger nói.

“Em thiết nghĩ là quan trọng,” ông Philip nói, đôi môi mím chặt.

“Không,” Roger nói. “Không! Có gì quan trọng hơn việc cha từ trần? Cha đã mất! Còn chúng ta ở đây để chỉ bàn chuyện tiền bạc!”

Một màu hồng nhẹ ửng lên trên đôi má tái xanh của Philip.

“Chúng tôi chỉ muốn cố giúp,” ông nói cứng.

“Anh biết, Phil, cậu em già của anh, anh biết. Nhưng không ai có thể làm gì. Do vậy, không bàn nữa.”

“Em giả sử,” Philip nói, “em có thể huy động một số tiền. Chứng khoán đã giảm giá dữ dội và một số vốn của em bị phong tỏa nên em không rớ tới được; phần tiền của Magda thì – nhưng…”

Magda nói nhanh:

“Dĩ nhiên anh không thể huy động tiền của em, anh thân yêu. Cố gắng thật là không tưởng – vả lại là không công bằng với các con.”

“Tôi đã nói với các người tôi không xin ai cái gì hết!” Roger quát lên. “Tôi đã khản cả tiếng để nói điều đó. Tôi hoàn toàn hài lòng để mọi sự diễn biến theo đường đi của nó.”

“Đây là vấn đề thanh danh của Cha Chúng ta,” Philip nhấn mạnh.

“Đó không phải doanh nghiệp gia đình. Nó là của riêng tôi.”

“Đúng,” Philip nói, nhìn ông anh. “Nó là doanh nghiệp của anh hoàn toàn.”

Edith de Haviland đứng dậy và nói: “Ta nghĩ chúng ta bàn chuyện đến đây đã đủ.”

Giọng nói của bà có cái vẻ uy quyền đáng tin cậy chưa bao giờ không có tác dụng.

Philip và Magda đứng dậy. Eustace bước ra khỏi phòng và tôi nhận thấy dáng đi cứng đờ của nó. Cậu ta không hẳn què nhưng bước đi cà nhắc từng bước một.

Roger câu tay ông vào tay Philip và nói:

“Chú là người trung hậu, nghĩ cả một việc như thế.”

Hai anh em cùng bước ra ngoài.

Magda lầm bầm, “Một trò lố bịch!” khi bà đi theo sau họ. Sophia nói nàng phải đi xem phòng của tôi.

Edith de Haviland đứng thu lại cuộn len đan. Bà đưa mắt nhìn tôi và tôi cho rằng bà sẽ nói chuyện với tôi. Có cái gì gần như là khẩn khoản trong ánh mắt của bà. Tuy nhiên, bà đổi ý, thở dài, và đi theo những người khác.

Clemency tiến tới bên cửa sổ và nhìn ra khu vườn. Tôi cũng đến đứng cạnh bà. Bà hơi xoay đầu về phía tôi.

“Cám ơn Chúa lòng lành, mọi sự đã qua,” bà nói – rồi nói thêm vẻ chán ghét: “Gian phòng cầu kỳ làm sao!”

“Bà có thích nó không?”

“Ở trong phòng này tôi không thể thở được. Luôn có mùi của hoa sắp tàn và đầy bụi bặm.”

Tôi nghĩ bà bất công với gian phòng. Nhưng tôi hiểu ý bà. Rõ ràng là do nội thất.

Đây là phòng của đàn bà, dịu dàng, đẹp kỳ cục, đóng kín cửa để tránh những cơn lốc dữ dội do thời tiết ở bên ngoài. Đây không phải là căn phòng mà người đàn ông thích ở lâu. Không phải là căn phòng để bạn thư giãn hay đọc báo, hút ống điếu và nghỉ chân. Tuy nhiên tôi thích nó hơn là gian phòng thể hiện trừu tượng của bà Clemency ở tầng trên.

Nói chung tôi thích khuê phòng hơn cảnh trên sân khấu.

Bà nhìn quanh, nói:

“Đúng là một sân khấu. Một phông nền để Magda lại diễn.” Bà nhìn tôi. “Cậu có biết, chúng tôi vừa mới làm gì không? Hồi II – cuộc họp gia đình. Magda sắp xếp nó. Không có ý nghĩa gì cả. Không có gì đáng nói, không có gì để bàn bạc. Tất cả đã được sắp đặt – hết.”

Không có sự buồn khổ trong giọng nói của bà. Trái lại có sự hài lòng. Bà bắt gặp cái nhìn của tôi.

“Ối dào, cậu không hiểu à?” bà nói một cách thiếu kiên nhẫn. “Rốt cuộc, chúng tôi đã được tự do! Cậu có biết Roger rất khốn khổ – khốn khổ tột cùng – bao năm nay? Anh ấy không có khiếu kinh doanh. Anh ấy thích các thứ như cưỡi ngựa, nuôi bò, đi lang thang vòng quanh đất nước. Nhưng anh tôn kính cha già – tất cả bọn họ đều như thế. Đó chính là điều sai lầm trong ngôi nhà này – quá gắn bó với gia đình. Tôi không có ý nói ông lão là bạo chúa, giày vò họ hay đàn áp họ. Ông không làm thế. Ông cho họ tiền và sự tự do. Ông hết lòng với họ. Và họ cứ phải tận tụy vì ông.”

“Có gì sai trong chuyện đó?”

“Tôi nghĩ là có. Tôi thiển nghĩ, khi bọn trẻ đã trưởng thành, cậu nên cắt đứt với chúng, náu mình đi, rời xa chúng, buộc chúng phải quên cậu đi.”

“Buộc chúng? Khá quyết liệt, phải không? Có cách nào khác tốt hơn ép buộc không?

“Giá ông già đừng biến mình thành một nhân vật như thế…”

“Bà không thể tự biến mình thành nhân vật,” tôi nói. “Ông ấy đã là một nhân vật.”

“Ông là một nhân vật quá lớn đối với Roger. Roger tôn kính cha. Anh ấy muốn làm cái gì cha anh muốn anh làm, anh muốn là loại người con như cha mong muốn. Nhưng anh không thể. Cha giao cho anh ấy Công ty Cung cấp thực phẩm – công ty là niềm vui và tự hào đặc biệt của cha anh ấy, và Roger cố gắng hết mình để theo bước cha. Nhưng anh ấy không có khả năng đó. Trong chuyện kinh doanh, Roger – tôi nói thẳng – là một kẻ ngốc. Và chuyện đó làm anh ấy gần như tan nát. Anh ấy khốn khổ bao năm, cố gắng gượng, nhìn mọi việc lao dốc, chợt nảy ra các ‘ý tưởng’ và ‘kế hoạch’ tuyệt vời luôn luôn đổ bể và làm cho sự tình càng tệ hại hơn. Thật là khủng khiếp khi cảm thấy thất bại năm này qua năm khác. Cậu không hiểu anh ấy đau khổ biết ngần nào. Nhưng tôi hiểu.”

Bà lại quay sang nhìn thẳng vào mặt tôi.

“Cậu nghĩ, cậu đã gợi ý cho cảnh sát rằng Roger có thể đã giết cha anh ấy – vì tiền! Cậu không biết là chuyện ấy thật dị hợm!”

“Giờ tôi mới biết,” tôi nói một cách nhún nhường.

“Khi Roger biết không thể ngăn chặn việc ấy nữa – rằng sự phá sản ắt đến, anh thực sự nhẹ lòng. Đúng thế. Anh đã lo cha sẽ biết – chứ chẳng lo gì khác. Anh đang trông đợi cuộc sống mới mà chúng tôi sẽ sống.” Mặt bà rung nhẹ và giọng bà dịu đi.

“Thế ông bà đi đâu?” tôi hỏi.

“Đi Barbados. Một người em họ xa của tôi vừa mới mất không lâu và để lại cho tôi một mảnh đất nhỏ bên đó – ồ, không nhiều lắm. Nhưng cũng có chỗ để đi. Chúng tôi sẽ rất nghèo khổ nhưng sẽ xoay xở để sống – chỉ để sống thì đâu tốn kém gì. Cả hai chúng tôi sẽ bên nhau – không lo lắng, cách xa tất cả bọn họ.” Bà thở dài.

“Roger là một người kỳ lạ. Anh ấy lo cho tôi – lo tôi phải nghèo khổ. Tôi cho rằng trong đầu của anh ấy khắc sâu quan điểm về tiền bạc của ông Leonides. Khi người chồng đầu của tôi còn sống, chúng tôi nghèo kinh khủng – và Roger nghĩ tôi rất quả cảm và tuyệt vời! Anh không biết tôi đã hạnh phúc – thật sự hạnh phúc! Từ lúc ấy trở đi tôi chưa bao giờ rất hạnh phúc. Tuy nhiên – tôi chưa hề yêu Richard như yêu Roger.”

Mắt bà hơi khép lại. Tôi nhận biết cảm xúc mãnh liệt của bà.

“Do vậy, cậu thấy đấy, tôi sẽ không bao giờ giết người vì tiền. Tôi không thích tiền.”

Tôi hoàn toàn tin điều bà nói. Clemency Leonides là một trong những người hiếm hoi mà đối với họ, đồng tiền không có gì hấp dẫn. Họ không ưa sự xa hoa, thích sự đơn sơ và thờ ơ với của cải.

Tuy nhiên vẫn còn có nhiều người tiền bạc không quyến rũ được họ, nhưng quyền lực lại quyến rũ được họ.

Tôi nói: “Bà có thể không muốn tiền cho bản thân – nhưng nói cho ngay, tiền bạc có thể làm được khối việc hay ho. Chẳng hạn như trợ cấp nghiên cứu.”

Tôi ngờ rằng bà Clemency có thể là người cuồng công việc, nhưng bà chỉ nói:

“Tôi không tin sự trợ cấp giúp được gì nhiều. Thường họ chi tiền không đúng chỗ. Những việc đáng làm thường được hoàn thành bởi người có niềm say mê và thôi thúc – có một tầm nhìn trời phú. Trang thiết bị đắt tiền và việc đào tạo và kinh nghiệm không hề như cậu tưởng tượng đâu. Việc chi tiêu thường rơi vào những tay không biết làm.”

“Bà không ngại từ bỏ công việc của bà khi đi Barbaros sao?” tôi hỏi. “Tôi cho rằng bà vẫn đi.”

“Đúng, ngay khi cảnh sát cho chúng tôi đi. Đúng, tôi sẽ không ngại từ bỏ công việc. Tại sao lại thế? Tôi không thích nhàn rỗi, nhưng ở Barbaros tôi đâu có ăn không ngồi rồi.” Bà vội nói thêm: “Ồ, chỉ khi sự việc được làm sáng tỏ sớm và chúng tôi có thể ra đi.”

“Bà Clemency,” tôi nói, “bà có nghĩ ra ai đã làm chuyện này không? Coi như bà và Roger không nhúng tay vào (và thật sự tôi không thấy có lý do nào để nghĩ ông bà đã làm), chắc chắn, với sự thông minh của bà, bà hẳn phải có ý tưởng nào đó về ai đã làm chứ?”

Bà đưa mắt nhìn tôi một cái nhìn kỳ lạ, một cái nhìn soi mói, cạnh khóe. Khi bà nói, giọng bà mất đi vẻ tự nhiên. Nó lúng túng, hơi bối rối.

“Người ta không thể phỏng đoán, vậy là phản khoa học,” bà nói. “Người ta chỉ có thể nói Brenda và Laurence là những nghi phạm hiển nhiên.”

“Bà nghĩ họ đã làm chuyện đó?” Clemency nhún vai.

Bà đứng dậy một lúc như thể lắng nghe, đoạn bước ra khỏi phòng, đi ngang qua bà Edith trên đường ra cửa.

Bà Edith đi thẳng đến chỗ tôi.

“Ta muốn nói chuyện với cậu,” bà bảo.

Những lời cha tôi nói chợt nảy ra trong đầu tôi. Đây có phải là…

Nhưng bà Edith de Haviland đã nói tiếp:

“Ta mong cậu đừng có ấn tượng sai lầm,” bà nói. “Về Philip, ta muốn nói, Philip là người khá khó hiểu. Nó có thể có vẻ dè dặt và lạnh lùng với cậu, nhưng không phải thế đâu. Đó chỉ là cung cách xử sự. Nó không khắc phục được.”

“Cháu thật sự không nghĩ…” tôi mở lời.

Nhưng bà át đi:

“Còn bây giờ – về Roger. Thực sự không phải là nó không có thiện chí. Nó không bao giờ nghĩ đến tiền bạc. Nó rất chân tình – luôn luôn là một người chân tình – nhưng nó cần được thông cảm.”

Tôi nhìn dáng điệu của bà, hy vọng tìm thấy ở đó một con người sẵn lòng thông cảm. Bà tiếp tục:

“Ta nghĩ, chuyện này có phần vì là đứa con thứ hai trong gia đình. Thường hay có chuyện với đứa con thứ. Cậu thấy rồi đó, nó tôn kính cha nó. Tất cả các đứa con đều tôn kính Aristide và ông thương yêu chúng. Nhưng Roger là niềm tự hào và niềm vui của ông. Nó là đứa con cả – đứa con đầu. Ta nghĩ Philip cảm thấy điều đó. Nó thu mình lại. Nó bắt đầu thích sách và quá khứ và những thứ tách khỏi cuộc sống hàng ngày. Ta nghĩ nó đau khổ – con cái có những chịu đựng đau khổ…”

Bà dừng lời, đoạn nói tiếp:

“Điều ta thực sự muốn nói đó là nó luôn ganh tị với Roger. Ta nghĩ, có lẽ nó cũng không hiểu chính mình. Nhưng ta nghĩ việc Roger thất bại thảm hại – ôi, thật đáng ghét khi phải nói như vậy, và ta chắc chắn nó cũng không ý thức được bản thân – nhưng ta nghĩ có lẽ Philip không buồn về chuyện mà lẽ ra nó nên buồn.”

“Ý bà là Philip khá vui khi thấy Roger tự biến mình thành ra lố bịch.”

“Đúng,” bà dì de Haviland xác nhận. “Ý ta đúng là như thế đấy.”

Bà nói thêm, hơi cau mày:

“Cậu biết không, nó không đề nghị giúp anh nó ngay làm ta buồn quá.”

“Tại sao ông ấy phải làm thế?” tôi nói. “Suy cho cùng, Roger đã làm hỏng chuyện. Ông ta là người lớn. Không có con cái để lo lắng. Nếu ông ta bị bệnh hoặc cần tiền sinh hoạt, dĩ nhiên gia đình sẽ giúp ông ta – nhưng cháu không hề nghi ngờ ông Roger thật sự thích tự mình bắt đầu lại từ đầu hơn.”

“Ôi, nó là như thế. Nó chỉ nghĩ đến Clemency. Clemency là một sinh vật kỳ lạ. Cô ta rất thích sống không tiện nghi và chỉ dùng một tách trà tiện dụng để uống. Cô ta không có cảm giác về quá khứ, về sắc đẹp. Ta chỉ biết nói: tân thời.”

Tôi cảm thấy đôi mắt sắc sảo của bà nhìn tôi từ trên xuống dưới.

“Đó là một thử thách tột độ cho Sophia,” bà nói. “Ta cảm thấy tội nghiệp cho tuổi trẻ của nó bị u ám vì chuyện này. Ta yêu thương tất cả bọn chúng, cậu biết mà. Roger và Philip, giờ thì Sophia, Eustace và Josephine. Tất cả bọn trẻ thương yêu, con cháu của Marcia. Đúng, ta thương chúng vô cùng.” Bà dừng lời, rồi đột nhiên nói thêm: “Nhưng, cậu nên nhớ, đây là khía cạnh sùng bái thần tượng.”

Bà đột ngột quay lưng và bước đi. Tôi cảm thấy có gì đó trong lời nhận xét cuối cùng của bà mà tôi không hiểu hết.

Bình luận
Ads Footer