NÊN sao chép, chia sẻ, KHÔNG NÊN thương mại hoá.

Tây Sơn Bi Hùng Truyện

Chương 52

Tác giả: Lê Đình Danh
Thể loại: Văn Học Việt Nam
Ads Top

Ngày kia ở ải Tam Điệp, Ngô Văn Sở nghe quân vào báo có vua Quang Trung đem đại binh đến gần ải. Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân và Ngô Thì Nhậm cùng chắp hai tay ra sau lưng, Sở bảo quân:

– Ngươi mau dùng dây trói bọn ta lại rồi giắt kiếm vào lưng để bọn ta ra chịu tội cùng vua.

Quân nghe lệnh lập tức thi hành. Ra ngoài cửa ải gặp vua Quang Trung đến, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Ngô Thì Nhậm cùng quỳ xuống đồng thanh thưa:

– Thua binh chém tướng, xin Hoàng thượng trị tội!

Vua Quang Trung ngồi trên bành voi bảo quân:

– Mau cởi trói cho ba quan tướng cùng vào đại bản doanh, tội công sẽ luận.

Vào đại bản doanh, vua Quang Trung ngồi nơi hổ tướng, mưu thần, võ tướng đều đứng hầu hai bên, Sở, Lân và Nhậm vẫn quỳ mọp chịu tội. Vua Quang Trung bảo:

– Nay quân Mãn Thanh mượn tiếng phò Lê sang xâm lược nước ta. Quân địch đông mạnh, khí thế đang hăng, Văn Sở, Văn Lân ở Bắc Hà quân ít đánh tất phải thua. Các khanh biết bảo toàn lực lượng lui về giữ nơi hiểm yếu, trong thì khích lòng tướng sĩ, ngoài khiến giặc kiêu căng. Ấy là công sao bảo là tội. Mới nghe qua ta đã biết là kế của Ngô Thì Nhậm, kịp hỏi Văn Tuyết thật quả không sai. Ngô Thì Nhậm là một quan văn nhưng bày thượng sách đánh giặc không ai có thể cao hơn được nữa.

Nói xong vua tự tay rót ngự tửu ban cho Ngô Thì Nhậm. Nhậm lạy tạ đón nhận, khóc nói:

– Ơn tái tạo của Hoàng thượng, Nhậm tôi dù phơi gan trải mật cũng không đền đáp được.

Đoạn Ngô Thì Nhậm quay sang Sở và Lân nói:

– Bọn ta đã thề rút về Tam Điệp có công cùng hưởng có tội cùng chia. Nay vua ban ngự tửu xin mời nhị vị tướng quân dùng trước.

Sở và Lân chưa kịp phản ứng, vua Quang Trung cười bảo:

– Nếu vậy Ngô Thì Nhậm hãy giữ chung rượu ấy chờ ta ban thưởng cho Văn Sở, Văn Lân xong, ba người cùng uống càng vui vẻ chớ sao.

Đoạn vua bảo Ngô Văn Sở:

– Khanh biết nghe lời nói phải, lui quân về Tam Điệp, lập kế xóa bếp lò vãi gạo ra đường khiến Tôn Sĩ Nghị kiêu căng khinh địch, rồi đây quân ta sẽ dễ dàng thủ thắng. Chung rượu này ban thưởng cho khanh.

Ngô Văn Sở đứng lên cầm lấy chung rượu. Vua Quang Trung rót chung thứ ba, Phan Văn Lân vẫn quỳ thưa:

– Hoàng thượng không bắt tội là may mắn lắm rồi, hạ thần sao dám nhận ngự tửu vua ban.

Vua Quang Trung hỏi:

– Sao Văn Lân lại nói thế ?

Lân đáp:

– Hạ thần phụng mệnh đem ngàn quân chặn giặc ở bờ Nam sông Như Nguyệt. Thua binh ngàn quân đều chết cả. Tội không kể thì thôi, công gì mà thưởng.

Vua Quang Trung ôn tồn nói:

– Thắng bại là lẽ thường của binh gia, huống hồ Văn Lân chỉ có ngàn quân mà ngăn được hai mươi vạn quân địch, dù còn lại một mình vẫn trên cầu chặn giặc cho các đạo quân ta lui về Tam Điệp được an toàn. Lòng trung nghĩa can trường của Văn Lân không đáng để khen thưởng hay sao?

Phan Văn Lân khóc nói:

– Quân ta kể từ khi Tây Sơn dấy nghĩa đến nay lấy ít địch nhiều, bách chiến bách thắng. Nay thua binh để ngàn anh em nghĩa sĩ phải hy sinh, Văn Lân tôi đau đớn hổ thẹn trong lòng, thật tình không dám nhận thưởng.

Vua Quang Trung bước xuống đỡ Văn Lân dậy rồi an ủi:

– Quân Tây Sơn ta từ trước đến nay một chỉ địch được hai, ba. Nay Văn Lân đánh với giặc đông hơn hai trăm lần dù thua binh có gì mà phải hổ thẹn. Nay ta đem mười vạn đại binh đến đây nhất định tiêu diệt ba mươi vạn quân Mãn Thanh, bắt sống Tôn Sĩ Nghị báo thù cho ngàn anh em nghĩa sĩ của ta. Nhưng chiến công sau này là do các khanh ở Bắc Hà khéo sắp đặt trước, trong đó lại chẳng có công của Văn Lân ư? Hãy mau cầm chung rượu thưởng, chớ phụ lòng ta.

Phan Văn Lân thấy chối từ không tiện bèn đón lấy chung ngự tửu rồi cùng Ngô Văn Sở, Ngô Thì Nhậm nâng lên uống cạn. Mọi người an tọạ xong vua Quang Trung giở bản đồ ra nói:

– Tôn Sĩ Nghị chia quân đóng đồn Ngọc Hồi, Hà Hồi ở mặt Nam thành Thăng Long, và đồn Khương Thượng ở mặt Tây thành Thăng Long. Đồng thời lại cho bọn cựu thần nhà Lê mộ quân đi trước gần ải Tam Điệp, Nghị cho quân do thám gần doanh trại của ta. Vậy chứng tỏ Nghị chưa phải đã tuyệt đối khinh địch. Nay ta muốn dùng khổ nhục kế khiến quân Thanh xếp giáp cất gươm ăn nghỉ no say mà không phòng bị. Khi ấy ta tiến đánh ắt dễ dàng tiêu diệt giặc và quân ta ít phải tổn thất. Ngặt vì không ai có thể lãnh mạng thi hành kế độc.

Các tướng Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Võ Đình Tú, Đặng Văn Long, Đặng Xuân Bảo, Đặng Xuân Phong, Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Văn Tuyết cùng đứng lên đồng thanh nói:

– Hạ thần xin vâng lệnh thi hành khổ nhục kế!

Vua Quang Trung xua tay bảo:

– Không được. Các khanh đều là đại tướng, nay mai đánh quân Thanh các khanh đều đã được phân sắp đâu đó cả rồi. Không thể làm việc này được!

Vua Quang Trung vừa dứt lời, bỗng nghe tiếng nói lớn:

– Khổ nhục kế thế nào, hạ thần xin lãnh mạng sang đầu Tôn Sĩ Nghị.

Mọi người giật mình nhìn lại thấy một viên thư lại mặt trắng môi son dáng dấp thanh tao. Vua Quang Trung hỏi:

– Người này là ai?

Trần Văn Kỷ bước ra nói:

– Người này là cháu thần tên Trần Danh Bính, tuổi còn trẻ nhưng trung nghĩa thanh liêm. Thần biết vậy mới cho theo phụ việc văn thư.

Vua Quang Trung hỏi Trần Văn Kỷ:

– Việc này vô cùng quan trọng cho kế hoạch đánh quân Thanh của ta, nên không thể đường đột chọn người. Theo Trần trung thư thì Trần Danh Bính có đáng tin cậy mà giao trọng trách chăng?

Trần Văn Kỷ đáp:

– Trần Danh Bính lòng trung kiên như Bắc Đẩu không dời, tính can trường tựa thái sơn không nhụt. Thần xin đem tánh mạng ra bảo đảm cho Trần Danh Bính.

Trần Danh Bính cởi áo giơ lưng ra nói:

– Xin hoàng thượng hãy sai người đánh thần để làm khổ nhục kế.

Vua Quang Trung bảo:

– Khổ nhục kế này không phải như kế xưa nay thiên hạ vẫn dùng. Kế khổ nhục này không phải ta đánh người của ta rồi sai người ấy mang thương tích trá hàng làm nội ứng, mà ngươi sẽ làm sứ giả mang thư trá hàng của ta đến dâng Tôn Sĩ Nghị. Nghị sẽ tra khảo ngươi để hỏi động tĩnh của ta ở Phú Xuân, ngươi cứ một mực khai rằng ta đang run rẩy ở Phú Xuân, sai ngươi đến xin hàng. Lần này chắc chắn Tôn Sĩ Nghị khinh địch mà xếp giáo cất gươm, ăn ngủ no say. Binh ta đến đánh chúng tất trở tay không kịp. Trọng trách nặng nề như thế ngươi có đảm đương nổi hay chăng? Nếu ngươi bị đau khai thật thì Tôn Sĩ Nghị biết ta đã đến Tam Điệp tất càng đề phòng hơn nữa, hóa ra là ta tự làm hỏng kế của ta. Việc quan trọng như thế nên ta phải dè đặt chọn người.

Trần Danh Bính đáp:

– Kẻ hạ thần có một cách khiến cho Hoàng thượng tin vào lòng can đảm của thần.

Nói xong Trần Danh Bính đốt một cây đèn bạch lạp rồi giơ ngón tay út của mình lên ngọn lửa của cây đèn bạch lạp ấy. Ngón tay bị đốt của Bính phồng dần lên đổi màu vàng và bay mùi khét. Trần Danh Bính mắt mở trừng trừng mồ hôi vã ra như tấm vẫn không hề kêu lên một tiếng. Đốt một hồi Bính lấy tay ra khỏi ngọn lửa thì ngón tay út đã cháy đen như một que củi. Người chứng kiến đều lè lưỡi lắc đầu. Có kẻ khen rằng:

– Gạn dạ như Trần Danh Bính dù Quan Vân Trường đời Hán cũng không sánh kịp.

Trần Danh Bính lấy vạt áo lau mồ hôi nói:

– Dù lóc thịt chặt xương cũng không thể đau đớn hơn thế được. Xin Hoàng thượng mau thi hành diệu kế!

Vua Quang Trung mừng rỡ bảo:

– Khanh thật là người trời sai xuống để giúp quân ta đó. Vậy khanh hãy mang thư ta đến gặp Tôn Sĩ Nghị. Nghị sẽ tra khảo khanh, khanh hãy gắng chịu đau mà nói thế này… thế này… tất Tôn Si Nghị sẽ xếp giáo cất gươm ăn no ngủ say cho quân ta đến đánh. Ấy là khổ nhục kế của ta vậy.

Trần Danh Bính tuân lệnh bèn tạm biệt lên đường.

Đến Thăng Long gặp Tôn Sĩ Nghị, Nghị hỏi Bính:

– Nguyễn Huệ sai ngươi đến đây có việc gì?

Bính đáp:

– Chúa công của kẻ hạ thần khiếp đảm oai trời trong lòng sợ hãi nên sai hạ thần dâng thư xin hàng. Mong Đại tướng quân dung nạp.

Đón thư đọc xong, Nghị cười lớn hỏi:

– Nguyễn Huệ xin ta đến hết Tết Nguyên Đán là ngày mùng sáu sẽ tự thân trói mình ra Thăng Long chịu tội. Vậy ta hỏi ngươi Nguyễn Huệ đang ở đâu. Nghe quân ta đến đây hắn phản ứng thế nào.

Bính vờ sợ hãi đáp:

– Chúa công của hạ thần ở Phú Xuân ngày quên ăn, đêm bỏ ngủ. Nghe Đại tướng quân đến đây người vội sai thần đem thư xin hàng. Đại tướng quân vừa đọc thư xong sao còn hỏi?

Nghị vỗ án quát:

– Láo xược! Ta nghe người nước Nam đồn rằng Nguyễn Huệ anh hùng lão luyện vào Nam ra Bắc xuất quỷ nhập thần. Sao nay lại dễ dàng quy hàng như thế? Ngươi mau khai thật, nếu không sẽ sai quân dùng cực hình tra khảo.

Trần Danh Bính run rẩy đáp:

– Anh hùng ở An Nam cũng không sánh bằng thất phu ở đất Bắc. Huống hồ Đại tướng quân là nhân tài kiệt hiệt, Chúa công của hạ thần dám đâu chống lại oai trời.

Tôn Sĩ Nghị bảo:

– Lời ngươi nói ta vẫn chưa tin. Võ sĩ mau chặt ngón tay của nó cho ta.

Quân võ sĩ nọc Bính ra chặt đứt một ngón tay. Bính đau đớn rên la cầu xin tha tội. Nghị quát hỏi:

– Nguyễn Huệ ở Phú Xuân động tĩnh thế nào. Mau khai ra?

Bính dập đầu thưa:

– Sự thật hạ thần đã nói rồi. Xin tướng quân tha cho!

Nghị vỗ án quát:

– Chặt tay nữa cho ta.

Võ sĩ chặt đứt chín ngón tay của Bính, Bính vẫn một mực khai như thế. Tôn Sĩ Nghị bảo quân:

– Mau lôi ra ngoài chém!

Bính hỏi:

– Hai nước đánh nhau không nên chém sứ, huống hồ Chúa của hạ thần đã xin hàng sao lại chém thần.

Nghị không đáp phất tay bảo quân:

– Mau đem ra chém!

Võ sĩ lôi Bính đi, Bính ngoảnh lại mắng:

– Tôn Sĩ Nghị! Mày là phường man di mọi rợ. Không ngờ Chúa ta lại chịu hàng một thằng mọi rợ như mày.

Quân đem đầu Trần Danh Bính vào dâng trước án. Nghị hỏi:

– Trước khi bị chém Bính có nói gì chăng.

Quân đáp :

– Hắn có nói rằng: Ta bị chết thảm cũng do ta phò Chúa nhu nhược ươn hèn.

Nghị vỗ tay cười lớn bảo:

– Nguyễn Huệ quả nhiên sợ ta như cọp không dám động binh. Truyền lệnh ta cho quân ăn chơi thỏa thích trong dịp Tết Nguyên Đán, đợi đến mùng sáu tháng giêng năm Kỷ Dậu sẽ cất quân vào Phú Xuân bắt Nguyễn Huệ.

Nói về vua Quang Trung trong đại bản doanh ở ải Tam Điệp nghe quân do thám về báo:

– Tôn Sĩ Nghị chém đầu quan Chánh Sứ Trần Danh Bính. Nghị lại cho quân ăn chơi thỏa thích trong dịp Tết Nguyên Đán. Nghe quân Thanh đồn rằng mùng sáu sẽ cất quân vào Phú Xuân bắt Bệ hạ.

Vua Quang Trung vỗ tay bảo:

– Tôn Sĩ Nghị quả nhiên trúng kế. Nhưng ta không ngờ nước Tàu tự xưng là văn hóa xem bốn bên là Bắc rợ, Nam man, Tây di lại đi chém sứ của ta. Thương thay Trần Danh Bính! Phen này phải bắt Tôn Sĩ Nghị báo thù Trần Danh Bính!

Đặng Văn Long hỏi:

– Vậy Bệ hạ còn chờ gì mà chưa xuống lệnh xuất quân?

Vua Quang Trung đáp:

– Chưa được!

– Vì sao chưa được?

– Hiện có năm mươi tên quân Thanh do thám ở cách ải Tam Điệp hai mươi dặm, nếu ta tiến binh bọn do thám này chạy về báo tin cho Trương Triều Long ở Hạ Hồi thì quân cơ bại lộ, và Trần Danh Bính phải chết vô ích. Vậy phải tiêu diệt bọn quân do thám này thì trong ngoài kín mít như bưng. Ta đến nơi mà Tôn Sĩ Nghị không hề hay biết.

Phan Văn Lân bước ra thưa:

– Thần xin đem hai trăm quân đi giết hết bọn do thám này.

Vua Quang Trung xua tay nói:

– Không được. Quân Thanh cưỡi giống ngựa phương Bắc cao lớn chạy nhanh, ngựa của ta không thể nào đuổi kịp. Nếu Văn Lân tiến đánh thế, nhất định cũng có tên thoát được.

Võ Đình Tú bước ra tâu:

– Xin Bệ hạ cho thần mượn một vật. Thần sẽ đơn thân độc mã ra bắt năm mươi tên quân do thám ấy.

Vua Quang Trung hỏi:

– Đình Tú muốn mượn vật gì?

Tú đáp:

– Thần xin mượn ngựa Xích kỳ của Nguyễn Văn Tuyết!

Vua Quang Trung lại hỏi :

– Nếu khanh để quân do thám này có một tên thoát được làm lộ quân cơ của ta thì thế nào?

Tú đáp:

– Thần xin chịu mất đầu theo tướng lệnh.

Vua Quang Trung cả mừng nói:

– Phiền Văn Tuyết hãy cho Đình Tú mượn ngựa Xích Kỳ.

Nói xong rót rượu tiễn Võ Đình Tú. Tú cưỡi ngựa Xích Kỳ nhằm hướng Bắc trực chỉ. Gặp toán quân Thanh do thám, Tú chẳng nói chẳng rằng vung côn đồng xông vào đánh giết. Quân Thanh hò nhau vây Đình Tú vào giữa, Tú tả xung hữu đột côn lia đến đâu địch quân phọt óc vỡ đầu. Đánh một hồi quân Thanh chết hơn phân nửa, còn lại hai mươi tên hò nhau bỏ chạy. Ngựa Xích kỳ phi mau quá, quân Thanh hốt hoảng bỏ chạy tứ tán. Đình Tú nhanh tay lẹ mắt, gần thì vung côn đánh chết, xa thì trương cung xạ tiễn, năm mươi tên quân Thanh do thám đều tử trận dưới tay Tú. Tú liền nhảy xuống ngựa cắt năm mươi cái đuôi tóc của bọn quân Thanh rồi lên ngựa phi về báo với vua Quang Trung rằng:

– Tâu Hoàng thượng, thần đã giết xong năm mươi tên quân Thanh do thám.

Vua Quang Trung hỏi:

– Lấy gì làm chắc rằng khanh đã giết hết năm mươi tên quân Thanh do thám đó.

Đình Tú liền gọi quân mang vào bó tóc đuôi sam rồi nói:

– Đủ năm mươi cái không thiếu cái nào. Xin Hoàng thượng xem xét.

Vua Quang Trung mừng rỡ khen:

– Vũ dũng như Đình Tú thật là hiếm có. Khanh đã lập được công đầu trong cuộc đại phá quân Thanh rồi vậy. Các tướng hãy sẵn sàng nghe lệnh.

Mọi người đồng thanh nói:

– Chúng thần đang chờ lệnh giết giặc cứu dân.

Vua Quang Trung bảo:

– Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Văn Tuyết đem trăm đại thuyền và một vạn quân theo đường bể ra Bắc vào sông Lục Đầu. Đến nơi hai tướng chia quân làm hai cánh, Nguyễn Văn Tuyết dùng thủy binh đánh chiếm đất Hải Dương ở phía Đông thành Thăng Long, phô trương thanh thế làm kế nghi binh, khiến Tôn Sĩ Nghị sợ không dám theo đường biển chạy về nước. Nguyễn Văn Lộc đem quân bộ đi gấp lên Kinh Bắc đến làng Phương Nhãn chiếm núi Yên Thế rồi án binh bất động chờ Tôn Sĩ Nghị chạy về thì đổ ra đánh bắt cho được Tôn Sĩ Nghị.

Lộc và Tuyết bước ra lãnh lệnh. Vua Quang Trung dặn :

– Văn Lộc đến phục ở núi Yên Thế vào đêm mùng bốn tết. Nếu chậm hơn, chém!

Lộc sợ hãi quỳ tâu:

– Hoàng thượng muốn giết, thần xin được chết ở đây chứ hạ thần không dám lãnh trọng trách này.

Vua Quang Trung cười hỏi:

– Ta lựa người vũ dũng chặn đường về bắt Tôn Sĩ Nghị. Năm xưa Lộc bị Đông Sơn Đỗ Thành Nhân vây ở ấp Hòa Hưng một đánh hai mà lui được giặc, sao nay lại lo sợ thế?

Đoạn vua than rằng:

– Thế mới biết cái oai của nước Tàu thật là to lớn vậy!

Văn Lộc tức tối nói:

– Nước Tàu đã từng bị cha ông ta đánh ôm đầu chạy về nước thì có gì thần phải sợ chúng. Nhưng thần e rằng trong bốn ngày không thể đến được Yên Thế mà thôi.

Vua Quang Trung hỏi:

– Vì sao trong bốn ngày không đến được Yên Thế.

Lộc đáp:

– Thần và Nguyễn Văn Tuyết là hai tướng thủy binh nên rất rõ việc này. Nay đang là tháng chạp mưa phùn gió bấc, từ đây đến cửa Lục Đầu vào Yên Thế đường xa diệu vợi, ngược hướng gió không thể trong bốn ngày mà đến nơi cho được.

Vua Quang Trung hỏi:

– Nếu trong ngày mùng bốn có gió Đông nam thổi mạnh thì đến đêm có thể đến được Yên Thế được chăng.

Nguyễn Văn Lộc đáp:

– Nếu vậy chắc chắn là đến kịp để bày trận mai phục.

Vua Quang Trung hạ lệnh:

– Tuyết và Lộc hãy lãnh binh phù lập tức xuất quân. Gió Bấc nhẹ thì sai quân dùng chèo mà đi, gió Bấc mạnh thì dong buồm theo hình chữ chi mà tiến. Đầu giờ Ngọ ngày mùng ba tết sẽ có gió Đông nam thổi mạnh đến giờ Ngọ ngày mùng bốn tết. Nếu không đến nơi kịp chặn đường về của Tôn Sĩ Nghị lệnh chém đầu.

Nguyễn Văn Tuyết vểnh râu hỏi:

– Xin hỏi Hoàng thượng mùa này mưa phùn gió Bấc hơi lạnh cắt da thì lấy đâu ra gió Đông nam. Và nếu không có gió Đông nam thì thế nào?

Vua Quang Trung cười đáp:

– Nếu đến ngày ấy mà không có gió Đông nam hai tướng cứ kéo quân về. Ta lấy lý gì mà bắt tội hai tướng được.

Nguyễn Văn Lộc xen vào hỏi:

– Nếu đúng vậy thần sẽ chặn đường về của Tôn Sĩ Nghị trong đêm mùng bốn. Vậy Hoàng thượng nghĩ rằng chỉ trong năm ngày ta đuổi quân Thanh ra khỏi Thăng Long sao? Trong lúc quân chúng đông gấp ba lần quân ta.

Không trả lời Văn Lộc, vua Quang Trung hỏi:

– Nếu trong năm ngày ta đuổi Tôn Sĩ Nghị ra khỏi Thăng Long chạy về Yên Thế mà Văn Lộc không bắt được Tôn Sĩ Nghị thì thế nào?

Lộc đáp:

– Nếu Hoàng thượng làm được điều kỳ diệu thế, mà Lộc tôi không bắt được Tôn Sĩ Nghị, xin chịu tội theo quân pháp.

Vua Quang Trung trao binh phù cho Văn Lộc xong, quay sang Văn Long vua bảo:

– Đặng Văn Long và Đặng Xuân Phong đem ba vạn quân theo đường núi ở phía Tây đường đại lộ, đến làng Nhân Mục đánh vào đồn Khương Thượng ở phía Tây nam thành Thăng Long. Chiếm được Khương Thượng rồi Long và Phong phải thừa thắng đánh Thăng Long, đuổi Tôn Sĩ Nghị. Mất Thăng Long, quân của Thượng Duy Thăng ở Ngọc Hồi và Trương Triều Long ở Hà Hồi tất không còn đường rút. Phen này ta quyết tiêu diệt quân xâm lược Mãn Thanh báo thù cho dân ta mới hả dạ. Đánh trận này là nhờ vào trọng trách của hai ngươi, phải tốc chiến tốc thắng. Nếu đến ngày mùng năm tết Kỷ Dậu không chiếm được thành Thăng Long, chém!

Đặng Văn Long nói mát rằng:

– Xét theo lẽ quân thần, hạ thần và Hoàng thượng là nghĩa vua tôi. Xét theo tình riêng, thần với đại sư huynh là huynh đệ đồng sư môn thọ giáo thầy Trương Văn Hiến thuở còn để chỏm. Nếu Đại sư huynh bảo chết, Văn Long tôi xin chết, cần gì phải mượn quân pháp để giết hạ thần.

Vua Quang Trung cười hỏi:

– Sao Văn Long lại bảo là ta muốn giết khanh?

Long đáp:

– Đường đến làng Nhân Mục là đường núi quanh co khúc khuỷu xa đến bốn trăm dặm thì làm sao đi trong bốn ngày mà đến nơi cho được. Chẳng phải là Đại sư huynh muốn giết Long tôi sao?

Vua Quang Trung lại hỏi:

– Đường đến Phương Nhãn, Yên Thế còn xa hơn Khương Thượng rất nhiều mà Nguyễn Văn Lộc dám lãnh mạng đi trong bốn ngày, sao đến Khương Thượng Văn Long lại không dám?

Đặng Văn Long cãi:

– Đường đến Yên Thế tuy xa nhưng đi bằng đường thủy có thể vừa ăn vừa tiến. Còn bộ binh phải dừng quân để nấu ăn, do vậy trong bốn ngày không thể đến nơi được.

Vua Quang Trung gọi quân mang vào một cái bánh, ngoài gói lá chuối đặt lên án rồi nói:

– Việc này ta đã liệu trước nên mới sai người nấu bánh chưng thành hình ống vừa vặn tay cầm gọi là bánh tét. Văn Long cứ việc hành quân, dùng bánh tét thay cơm không cần nghỉ ngơi để nấu ăn. Vậy trong bốn ngày có thể đến Khương Thượng được chưa?

Đặng Xuân Phong xen vào nói:

– Đành rằng bốn ngày có thể tới nơi, nhưng quân ta đi suốt ngày đêm tướng sĩ mỏi mệt sao đánh thắng quân Thanh đang nghỉ ngơi khỏe khoắn được. Binh pháp có câu không lấy quân mệt mà đánh quân khỏe. Xin Hoàng thượng xét lại.

Vua Quang Trung cười bảo:

– Binh thư là cái ai cũng có thể học được. Đánh giặc ngoài binh thư mới bất ngờ chắc thắng. Việc này ta đã tính trước nên mới sai người làm thật nhiều võng. Nay ta cấp cho đạo quân của ngươi, cứ ba người một cái võng; hai người khiêng một người nằm ngủ, thay phiên nhau mà đi. Một ngày gồm mười hai canh giờ, vậy một người vẫn ngủ được bốn canh giờ mà hành quân ngày đêm không nghỉ. Quân ta đến nơi đúng thời gian quy định mà tướng sĩ vẫn mạnh khoẻ như thường.

Đặng Văn Long và Đặng Xuân Phong đồng thanh nói:

– Hoàng thượng liệu việc như thần. Danh tướng từ cổ chí kim không ai sánh kịp.

Nói rồi liền bước ra lãnh lấy binh phù.

Vua Quang Trung vỗ án đứng lên chỉ về phương Bắc cao giọng rằng:

– Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân lãnh ấn tiên phong đánh hai thành Hà Hồi và Ngọc Hồi. Ta và Võ Đình Tú, Đặng Xuân Bảo cầm trung quân tùy cơ tiếp ứng. Hẹn ngày mùng năm tết cùng vào đến Thăng Long. Truyền lệnh ta quân các đạo lập tức xuất binh.

Quân Tây Sơn đúng giờ giao thừa năm Mậu Thân – Kỷ Dậu (1789) ngựa cất lạt, người ngậm tăm âm thầm mà tiến.

oOo

Bình luận
Ads Footer