NÊN sao chép, chia sẻ, KHÔNG NÊN thương mại hoá.

Tư Duy Như Một Hệ Thống

Sáng Chủ Nhật

Tác giả: David Bohm
Thể loại: Triết Học
Ads Top

Bohm: Ta đã thảo luận với nhau khá nhiều chuyện, nhưng cũng còn một số chuyện nữa cần phải xem xét.

Trước tiên, tôi thiển nghĩ nên nói thêm đôi chút về năng lực nhận cảm cơ thể. Tôi hiểu là một số người cảm thấy vẫn còn chưa rõ. Cái căn bản là bạn phải ý thức được về cơ thể bạn một cách trực tiếp, về việc cơ thể bạn đang vận động ra sao; trong khi nếu bạn nhìn một cái cây chuyển động, chẳng hạn, bạn ý thức được rằng nó hoàn toàn độc lập với bạn. Năng lực nhận cảm cơ thể khiến bạn ý thức được toàn bộ cơ thể bạn xem như nó thuộc về bạn, là một phần của bạn. Bạn ý thức được cái gì đang xảy ra và việc những ý muốn của bạn đang tác động lên cái đó như thế nào, v.v. Và chúng ta thì luôn luôn có thể tiếp cận gần hơn đến năng lực nhận cảm cơ thể. Những người đủ khéo léo, như những vận động viên hay những nghệ sĩ múa, họ hẳn phải có một năng lực nhận cảm cơ thể rất tốt để cảm nhận một cách chính xác việc họ đang vận động như thế nào. Họ đâu cần dừng lại để suy nghĩ. Chắc hẳn trong tư duy của mình họ phải biết họ muốn làm gì; nhưng trong khi đang thực sự làm việc đó thì họ không dừng lại để phân tích một cách chính xác xem việc đó diễn tiến ra sao và so sánh nó với những gì họ định làm.

Cái đó là cái đã sẵn bao hàm trong sự nội cảm rồi. Nhưng khả năng tự ý thức này có thể bị mất đi. Tôi có đọc một câu chuyện nói về một người vốn bị một sự cố, sau đó anh ta cảm thấy phần bên phải của cơ thể không còn thuộc về mình nữa – anh ta không còn bao giờ ý thức được về nó để xem nó như một bộ phận của cơ thể mình nữa. Vấn đề là chúng ta ý thức được ngay tức khắc sự khác biệt giữa một vận động xuất phát từ bản thân nó với một vận động mà trước đó ta nghĩ đến, dù trên thực tế không cần phải chăm chăm nghĩ rằng “đây chính là cái tôi ý thức được về nó đấy.”

Tôi muốn nói rằng năng lực nhận cảm cơ thể này rất có thể được mở rộng đến tận tư duy, để ta có thể ý thức được về tư duy khi nó can dự. Sự can dự của tư duy tạo ra đủ thứ. Thế rồi nó tác động vào tri giác – cái bạn nghĩ tác động đến cái tri giác thấy ở bên ngoài và cái bạn cảm thấy ở bên trong.

H: Tôi cứ băn khoăn về ví dụ hôm qua ngài đưa ra về người đàn bà mất hoàn toàn năng lực nhận cảm cơ thể để rồi phải dùng mắt để tự điều chỉnh bản thân. Khi đang ngồi đây, ai trong chúng ta cũng đang sử dụng năng lực nhận cảm cơ thể của mình, bằng không thì làm sao ngồi vững được.

Bohm: Vâng, đó là một ví dụ rất hay. Bà ta chợt tỉnh dậy không còn năng lực nhận cảm cơ thể và rồi không có cách gì kiểm soát hay làm chủ những cử động của cơ thể. Bà không ngồi dậy hay làm bất cứ việc gì được. Bà đã phải nhìn ngó mọi thứ để xem xem điều gì xảy ra và cố hồi tỉnh lại theo cách đó.

Khó mà cắt nghĩa được điều này, nhưng khi ngồi trên ghế, bạn ý thức được về cơ thể của mình. Có thể bạn không để ý thấy, nhưng ở đây có một sự nhận biết bằng ý thức về việc cơ thể bạn đang tiếp xúc với chiếc ghế và nhiều những cử động nho nhỏ bạn buộc phải thực hiện để sửa lại tư thế nếu cảm thấy mình sắp ngã, v.v. Tất cả những cái ấy đều thuộc về năng lực nhận cảm cơ thể. Bạn thực ra đâu có nghĩ về nó, hay có đưa ra những phán xét về nó, hay đâu có lựa chọn gì, hay làm bất cứ việc gì đại loại như vậy. Đúng hơn là nó chỉ việc tự vận hành thế thôi.

Vậy là ta đang phải tự hỏi xem liệu năng lực nhận cảm cơ thể có làm đúng như vậy với tư duy không – để rồi bạn có thể trực tiếp ý thức được rằng tư duy của bạn đang tác động lên các tri giác của bạn. Ta đã bàn về việc tư duy tác động lên tri giác như thế nào. Bạn nhìn thấy hoặc cảm nhận được rằng có cái gì đó do tư duy tạo ra, nhưng tiếp đó lại có một tư duy khác ập đến và bảo “tôi chỉ kể cho anh biết mọi việc nó ra sao mà thôi”. Tư duy tuyên bố ra như thế trong khi thực ra nó lại đang tác động đến cách mà mọi việc diễn ra. Đây là một sai phạm rất cốt yếu. Nó giống như việc trong cơ thể không có năng lực nhận cảm cơ thể vậy.

H: Tôi thường nghĩ rằng năng lực nhận cảm cơ thể về tư duy là đi theo đường thẳng và rằng tôi phải lần theo mạch tư duy của tôi, mà thế thì lại mâu thuẫn. Và thế là tôi nhận ra được rằng tôi đã phải ý thức được về tư duy của mình thông qua cảm giác.

Bohm: Tư duy làm nảy sinh cảm giác, đúng vậy. Ngay cả sự thôi thúc buộc ta phải suy nghĩ cũng là một cảm giác. Thế rồi sau đó tư duy của bạn lại làm nảy sinh thêm những cảm giác và những hình ảnh tiếp theo.

H: Nếu trong khi đang nói chuyện với ngài, tôi say sưa đến nỗi mất đi cảm nghiệm về cơ thể, về cảm xúc, thì có lẽ tư duy vẫn đang hoạt động nhưng không có cái mà ngài gọi là năng lực nhận cảm cơ thể nữa. Nhưng nếu tôi quay lại chú ý vào cơ thể và vẫn nói chuyện với ngài thì lúc đó tôi lại phần nào cảm thấy được bàn tay mình đang động đậy, phần nào cảm giác về cái ghế mình đang ngồi, về chất giọng mình đang nói. Thế thì đó là một quá trình khác. Có phải ngài định nói như vậy không ạ?

Bohm: Vâng, và tất cả những cảm xúc khác xuất hiện từ những cái bạn đang nói.

H: Có phải ta đang nói về một trường ý thức thống nhất trong đó bao gồm cả tư duy nhưng không loại trừ những gì thuộc cơ thể hay không?

Bohm: Vâng, nhưng tôi đang nói rằng tư duy là một phần thuộc cơ thể. Hôm qua tôi đã lưu ý rằng tư duy cũng là một dạng thuộc cơ thể nhưng tinh tế hơn. Có lẽ ta nên bàn thêm về điều này.

Tư duy là bộ phận của một quá trình vật chất. Quá trình đó diễn ra trong bộ não, trong hệ thần kinh, và thật ra là trong khắp cơ thể và trong tất cả mọi thứ; tất cả là một hệ thống. Tư duy có thể được truyền tải thông qua những quá trình mang tính vật thể như sóng vô tuyến, truyền hình, chữ viết – đủ mọi loại phương tiện. Khi nói chuyện, âm thanh phát ra và truyền tải tư tưởng. Trong cơ thể, tư duy được truyền tải bằng những tín hiệu thần kinh; ở đây có một kiểu mật mã gì đó mà ta không biết rõ lắm.

Ta đang nói với nhau rằng tư duy là một quá trình mang tính vật chất; tư duy có những phản xạ tự chúng diễn ra. Và nếu bạn có một khả năng nhìn thấu bảo cho biết điều này là có thật, thì nó sẽ thực sự tác động đến bạn. Một sự nhìn thấu hay một tri giác về sự thật có thể tác động sâu sắc đến quá trình vật chất, một quá trình bao gồm trong đó cả các phản xạ. Nhưng nếu chúng ta chỉ có một tri thức mang tính trí tuệ hay mang tính suy luận thôi về những gì đang tiếp diễn, thì nó không can thiệp sâu vào quá trình này.

H: Khi cái ngài gọi là nhìn thấu xuất hiện thì thực tế là có một sự tái tổ chức xuất hiện. Và đây không phải là điều tôi có được hoặc biết được về suy nghĩ của mình, mà chỉ đơn giản là sự vận hành lúc này có phần khác đi.

Bohm: Đúng, ở đây có một sự thay đổi. Hãy giả sử rằng chúng ta sử dụng những mối nối thần kinh trong não như một loại biểu hiện, mặc dầu trong thực tế nó phong phú hơn thế nhiều. Chúng ta có tất cả các dây thần kinh kết nối với nhau thông qua các mối nối thần kinh. Và chúng có thể làm thành một tập hợp các mối nối thần kinh tạo ra một phản xạ nào đó không có nghĩa lí gì cho lắm mà chỉ đơn giản để duy trì sự vận hành. Tư duy hành động và can dự như thế nào thì mỗi tri giác cũng hành động và can dự như vậy. Thế tức là nhờ vào sự nhận biết chân lí bằng tri giác hay nhờ nhìn thấu mà thứ tri giác này hành động. Và rồi nó thực hiện trực tiếp những hành động của mình trong hệ thống và bằng cách nào đó tạo ra một sự thay đổi khiến phản xạ trở nên vô hiệu. Có lẽ phản xạ bắt đầu tan biến chút đỉnh. Bạn không được để cho tất cả các liên kết mối nối thần kinh tan biến mất, bằng không bạn sẽ không còn làm được bất cứ điều gì. Điều này cần được tiến hành một cách thông minh.

Hẳn bạn đã từng có lần thấy cái gì đó có vẻ như rất hấp dẫn đối với bạn, rồi bằng vào tri giác bạn chợt nhận ra thực chất đó là cái gì, rồi bạn tự bảo: “Nó chẳng còn mảy may hấp dẫn tôi nữa. Tôi hoàn toàn dửng dưng với nó.” Các bạn hiểu ý tôi chứ? Nằm trong sâu của sự ước muốn, sự khao khát một cái gì, có cái gì đó thuộc về hóa học; rồi đột nhiên cái đó dừng lại. Quá trình hóa học bị tri giác tác động.

Hôm qua ta đã bàn với nhau rằng vật chất rất có thể vô cùng tinh tế. Khoa học chưa biết hết về nó và có lẽ chẳng bao giờ biết hết. Mà vật chất đâu chỉ mang tính cơ giới. Do đó, nó có thể đáp lại tri giác bằng những cách hết sức bí ẩn và tinh tế, vượt ngoài khuôn khổ, khiến khoa học có thể lần thấy dấu vết. Nên có thể cần có sự thay đổi. Phải quan niệm như sau: sự nhìn thấu hay tri giác sẽ tác động được đến mọi thứ. Nó không chỉ tác động đến nhận thức suy lí mà còn tác động đến cả cấp độ hóa học, và đến tất cả mọi thứ khác.

H: Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta nhìn tất cả những cái đó như một quá trình thống nhất.

Bohm: Nhưng chúng ta thậm chí sẽ không “nhìn thấy” nó, vì khi vận hành, nó vận hành quá nhanh đến mức bạn không kịp biết điều gì đã xảy ra – bạn bắt gặp nó trong chớp nhoáng. Sau đó bạn diễn tả nó ra bằng ngôn từ. Vậy, câu hỏi có tính then chốt ở đây là: khi một sự nhìn thấu được diễn đạt ra thành ngôn từ, thì cái gì là cái diễn đạt nó ra thành lời? Là tư duy hay là nhìn thấu? Tôi muốn các bạn hiểu rằng bản thân sự nhìn thấu sẽ là một sự nhìn thấu vào những ngôn từ biểu hiện nó một cách đúng đắn. Có thể nghĩ nó gần giống như những ngôn từ phát ra từ một chiếc loa phóng thanh hơn là những ngôn từ do một người nào đó đang cố gắng nói ra.

H: Điệu bộ của cơ thể đóng vai trò gì trong văn cảnh của những gì ta đang nói với nhau?

Bohm: Đó là một phần của sự biểu hiện, nó không phải là kết quả của tư duy. Bất kì cái gì đang diễn biến đều tự biểu hiện bản thân nó thông qua ngôn từ, thông qua điệu bộ và nhiều cách khác. Sự biểu hiện, dù thành văn hay không, là một phần của tri giác hay nhìn thấu. Và sự biểu hiện có tầm quan trọng, vì tri giác sẽ không chỉ thay đổi một số trong những mối thần kinh – hay những cái gì đó – mà còn truyền tải đến tư duy nội dung cơ bản của cái nhìn thấu. Như vậy, tư duy có thể tiếp tục hành xử trên một cơ sở khác, theo một hướng khác. Do đó việc diễn tả nó ra thành ngôn từ là điều quan trọng.

Nhưng những ngôn từ này phải xuất phát từ sự nhìn thấu. Còn nếu ngược lại, chỉ xuất phát từ kí ức thì ngôn từ rất có thể không biểu hiện được tư duy.

H: Có phải ngài đang nói rằng khi có được một sự nhìn thấu vào quá trình sáng tạo này, thì phương thức được sử dụng ở đây không phải là ngôn ngữ – mà đó là một hành vi sáng tạo? Và rồi một hành vi sáng tạo khác của bộ não sẽ chuyển đổi điều này thành một thứ ngôn ngữ của lời nói để ta có thể truyền đạt cho nhau?

Bohm: Đúng vậy. Nhưng tôi nghĩ tất cả chỉ là một hành vi duy nhất mà thôi. Hành vi sáng tạo cùng một lúc vừa sửa đổi một số phản xạ lại vừa tạo ra sự thể hiện, thông qua ngôn từ hay thông qua một số phương tiện khác; rồi sự thể hiện này lại cho phép tư duy thế chỗ nó để xuất phát từ đó di chuyển theo một hướng khác.

H: Tôi đồ rằng có thể so sánh một cách đơn giản cái này với sự khác nhau giữa việc học thuộc bảng cửu chương với việc hiểu một công thức.

Một khi đã nhận thức được mối liên hệ thì việc thuộc lòng các dữ liệu khác không còn ý nghĩa nữa và bạn có thể đi trực tiếp đến mối liên hệ đó.

Bohm: Đúng. Khi bạn thấu hiểu được một điều gì, thì theo cách nào đó điều này chạm đến một tầng bậc sâu hơn và rồi nó sẽ lại bộc lộ ra thành ngôn từ.

Vấn đề là chúng ta phải có khả năng nhìn thấu. Giả sử ta tự hỏi, “Liệu ta có cái gọi là khả năng nhìn thấu để thấy rằng tư duy là một quá trình vật chất, hay thấy rằng tư duy luôn can dự vào tri giác không nhỉ?”. Nếu ta có được cái nhìn thấu ấy thì điều này có thể loại bỏ bớt một số rào cản đối với hướng hoạt động kiểu đó.

Nhưng toàn bộ tập hợp phản xạ của bạn lại chống lại điều này. Tập hợp đó bảo rằng “tư duy đâu phải là một quá trình vật chất”. Phản xạ đầu tiên của ta là: “Tư duy nằm ngoài vật chất rất xa, hay kiểu gì cũng tách biệt với vật chất.” Nó có một thứ chân lí tinh thần hay một thứ ý nghĩa trọng đại nào đó về mặt tâm linh. Quan niệm này đã được ấn định trong ta như một phản xạ.

Tuy nhiên, ta lại đang nói với nhau rằng tư duy là một quá trình vật chất và nó có can dự – tức là cái quan niệm cho rằng tư duy chỉ bảo cho ta biết mọi sự diễn ra như thế nào mà thôi là một sự lựa chọn không nghiêm túc. Nếu điều này xuất hiện như một cái nhìn thấu, hoặc nếu bạn có thể nhìn thấu rằng tư duy không có năng lực nhận cảm cơ thể nhưng nó cần có năng lực nhận cảm cơ thể, thì điều đó sẽ bắt đầu chạm đến những mối nối thần kinh đang duy trì các phản xạ này. Lúc này, ngôn từ cũng sẽ tạo ra một sự thay đổi trong tư duy, và tư duy sẽ bắt đầu thôi không nhìn sự vật theo chiều hướng ấy nữa.

Sự lệ thuộc của chúng ta vào điều kiện chứa đựng trong đó nhiều rào cản khác nhau đối với năng lực nhận cảm cơ thể, mà một trong những rào cản ấy là việc tư duy mặc nhiên nói rằng năng lực nhận cảm cơ thể là không cần thiết, không tất yếu. Và nếu tư duy chỉ nói cho bạn biết mọi thứ đang diễn ra như thế nào thôi, thì năng lực nhận cảm cơ thể có lẽ là không cần thiết thật, vì thế thì có gì đâu mà phải tri giác. Do đó, quan niệm cho rằng tư duy chỉ nói cho bạn biết mọi thứ đang diễn ra như thế nào là một lựa chọn không nghiêm túc; đây không phải là vấn đề cần xem xét một cách nghiêm túc. Các bạn hiểu chứ ạ? Khi bạn có thể nhìn thấu vào sự việc, thì từ đó những cái trước đây hiện ra vô cùng quan trọng sẽ không còn được bạn nhìn với một con mắt quá nghiêm túc nữa. Bạn sẽ rất coi nhẹ chúng mặc dù trước đây chúng từng kích động rất ghê gớm và từng mang một ý nghĩa lớn lao. Giờ thì bạn nói: “Chúng chẳng có nghĩa lí gì. Chúng chỉ là những thứ mang tính cơ giới mà thôi.”

H: Hình như năng lực nhận cảm cơ thể có nhiều cấp độ khác nhau. Liệu điều này có dính dáng gì đến sự nhận biết bằng ý thức cũng như sự không nhận biết được bằng ý thức hay sự không suy niệm [41] hay không? Và ngoài Krishnamurti ra thì còn có ai khác có được một năng lực nhận cảm cơ thể cao hơn, hay một năng lực suy niệm cao hơn về những gì đang diễn ra hay không?

Bohm: Tất cả đều có thể, nhưng ta có khả năng bị lún sâu vào địa hạt của những tư biện, và những tư biện đó lại được mang theo vào hệ thống. Ta hẳn sẽ đưa mọi thứ vào trong hệ thống của những tư duy và những phản xạ của mình, và rồi chúng có thể trở thành một thứ tri thức đồng hành với ta. Thế tức là trong kiểu tư biện giàu tính tưởng tượng này có một mối nguy hiểm. Quan trọng là bạn phải tự mình thực sự nhìn thấy năng lực nhận cảm cơ thể về tư duy, phải nhìn thấy nó trong lúc nó đang hoạt động.

Tôi muốn bàn đến trí tưởng tượng để có thể hiểu được vai trò của nó ở đây, vì nó liên quan mật thiết đến vấn đề này. “Tưởng tượng” có nghĩa là “tạo ra một hình ảnh”, là “nhìn thấy hình ảnh của cái không có thật”; dùng từ ngữ khác đi thì có thể gọi là ảo tưởng hay sự huyễn tưởng, hay đủ thứ nữa. Nhưng thực ra giữa quá trình tưởng tượng với năng lực nhận cảm cơ thể lại không khác nhau mấy về cơ bản. Ta từng nói với nhau rằng thực ra toàn bộ sự ý thức là được tạo bởi một quá trình, quá trình đó luôn do thông tin có được từ các giác quan dẫn dắt. [42]

Quá trình này khiến nảy sinh ra tri giác của chúng ta, và quá trình này cũng là một loại trí tưởng tượng. Bạn có thể gọi nó là trí tưởng tượng ban đầu hay trí tưởng tượng nguyên sơ.

Cũng như vậy, bạn có thể tưởng tượng ra những thứ không có thật, những thứ không do tri giác chỉ cho biết. Và đó rất có thể là sự tưởng tượng mang tính sáng tạo. Ta có thể tưởng tượng ra những hình hài của những thứ không ai từng biết, những hình hài mà từ thời điểm đó mới hiện diện.

Chúng ta lại còn có một loại trí tưởng tượng khác, đến từ quá khứ, từ những phản xạ – trí tưởng tượng phản xạ, còn có thể gọi là “ảo tưởng” hay “sự huyễn tưởng”. Cái đó cũng có thể có ích, bởi vì chúng ta có thể hình dung mọi thứ và hình dung chính mình đang đi trên những con đường nào đó hay đang làm những việc gì đó, và rồi theo cách ấy mà giải quyết các vấn đề. Nhưng điều này có thể rất nguy hại, vì cái ảo tưởng kiểu này rất dễ biến thành tri giác hiển hiện; nó có thể can dự vào tri giác theo cách mà tư duy can dự, như ta đã từng nói. Khi bị lạc vào ảo tưởng, bạn sẽ có cảm giác như bạn đang tri giác thấy cái do bạn tưởng tượng ra. Rồi không những chỉ đang tri giác một cách hiển hiện cái ảo tưởng mà bạn vẽ ra, bạn còn hiển hiện trải nghiệm và tri giác cái tôi của bạn đang làm việc đó. Nói cách khác, tất cả đều do tư duy dựng nên. Trong tưởng tượng, con người bạn hoàn toàn khác với những gì lẽ ra phải thế ở ngoài đời, giống như chân dung được miêu tả trong cuốn Cuộc đời bí ẩn của Walter Mitty (The secret life of Walter Mitty) [43] vậy.

Thế là trong trí tưởng tượng của mình, bạn tự tạo ra bản thân bạn và tạo ra cả một thế giới. Rồi sau đó, rất có thể ảo tưởng sẽ bắt đầu hòa lẫn với tri giác của bạn về thực tại. Có một số học giả đã từng cho rằng, khi bắt đầu hoạt động, trí nhớ của trẻ hầu như chỉ là ảo tưởng. Theo như nhà tâm lí học trẻ em Piaget, những đứa trẻ còn bé hẳn phải có rất nhiều ảo tưởng trong tư duy. Chúng có thể tưởng tượng rằng chúng đang tác động lên mọi thứ bằng phép mầu. Thế rồi sau dần chúng mới học cách phân biệt ra một số “ảo tưởng” được gọi là “thực tại”, cụ thể là những ảo tưởng nào đã được thực tại kiểm chứng: những thứ đứng vững được, những thứ ai cũng nhìn thấy, những thứ kháng cự lại khi bị xô đẩy, những thứ không bị tác động bởi việc bạn nghĩ về chúng như thế nào, v.v.

Như vậy, thực tại mà bạn tri giác thấy bị tư duy của bạn tác động vào. Tư duy đang vận hành như một loại ảo tưởng đang ngấm vào tri giác của bạn. Nó trở thành một phần của những gì bạn nhìn thấy. Loại ảo tưởng này là cần thiết. Nhưng nếu nó bám quá chặt và kháng cự lại bằng chứng về sự thiếu mạch lạc, thì rồi điều đó sẽ dẫn đến tất cả những vấn đề mà chúng ta đang bàn.

Đó là bức tranh chung. Do đó mà bạn phải thấy rằng bạn cần hết sức canh chừng trí tưởng tượng. Nó có thể mang lại sự sáng tạo mà nó cũng có thể vô cùng tiêu cực, vì vương quốc ảo tưởng có thể hòa lẫn vào với thực tại và tạo ra một sự chống đối quyết liệt việc coi nó là ảo tưởng. Nó sẽ tạo ra những phản xạ kháng cự lại việc nhìn ra nó, vì bạn tạo ra những ảo tưởng đẹp đẽ đến mức bạn không muốn rời bỏ chúng ra nữa. Chúng tạo cảm giác thật thoải mái, endorphin và mọi thứ khác nữa được sinh ra. Từ đó, có một sự vận động – một phản xạ – duy trì những ảo tưởng ấy và chống lại những ý nghĩ cho rằng chúng không phải là thật, rằng chúng không đúng như thế. Thế là bạn rơi vào ảo tưởng và đủ thứ kiểu như vậy.

Tôi nghĩ rằng khái niệm ảo tưởng sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn việc tư duy có khả năng biến thành tri giác như thế nào. Và thậm chí khi bạn không nghĩ rằng bạn đang tạo ra ảo tưởng, thì nó vẫn cứ tiếp tục biến thành tri giác, vì tri giác về cơ bản là cùng một bản tính như quá trình tưởng tượng. Nếu bạn nghĩ đến việc tri giác được tạo ra từ bộ não để đáp ứng lại với thông tin, thì tiếp theo sẽ không tránh khỏi là ta có thể dễ dàng tạo ra những tri giác không thật; và rồi ta phải sửa chữa chúng.

H: Thế còn về sự thiếu mạch lạc xuất phát từ thói nghiện mang tính tâm lí trong đó bao gồm cả thói nghiện mang tính hóa học như nghiện rượu hoặc nghiện ma túy thì thế nào? Cả cái này nữa cũng tác động đến tri giác.

Bohm: Đúng thế, nhưng lúc nào thói nghiện mang tính tâm tí cũng là cái khó xử lí nhất. Chẳng hạn, người ta đã tiến hành những thí nghiệm tiêm một loại ma tuý nào đó, có thể là moocphin, cho các con thú để gây nghiện cho chúng về mặt hóa học. Có hai nhóm – một nhóm tự tiêm lấy được còn nhóm kia được người ta tiêm cho. Sau đó ngừng cung cấp ma túy cho cả hai nhóm. Sau một quá trình cai nghiện, nhóm được tiêm không còn bị nghiện nữa. Những con thú có khả năng nhấn nút để tự tiêm cũng trải qua quá trình cai nghiện, nhưng sau đó bất cứ khi nào nhìn thấy nút là chúng vẫn nhấn, cho dù có nhấn cũng không còn ma tuý cho chúng, vấn đề ở đây là kí ức về khoái cảm đã tạo ra phản xạ nhấn nút. Nút nhấn ấy đã khích động toàn bộ hệ thống kí ức.

H: Ảo tượng và trí tưởng tượng có phải hầu hết là dựa trên cơ sở kí ức và những kinh nghiệm đã qua không?

Bohm: Tôi đã nói có nhiều kiểu trí tưởng tượng. Có loại trí tưởng tượng dựa vào kí ức, để nhớ lại quá khứ hoặc để dự đoán tương lai. Cộng vào đó, lại có kiểu trí tưởng tượng sáng tạo, nó có thể đưa ra một cái gì mới mẻ – chẳng hạn, một ý tưởng mới nhằm tạo ra một cái gì trước đó chưa hề có. Thật vậy, rất nhiều thứ ta thấy ở đây là kết quả của loại trí tưởng tượng ấy.

Tôi vừa nói tri giác là một quá trình tương tự với tưởng tượng. Vậy đây là vấn đề then chốt. Nhưng ta không kiểm soát được nó. Nó cứ thế diễn ra. Nó tự diễn tiến và tạo ra toàn bộ ấn tượng về một thế giới. Thế giới bao gồm không chỉ những gì ta cảm nhận được bằng giác quan – những gì ta trực tiếp tri giác – mà còn bao gồm cả tác động của quá khứ. Tư duy đang tác động lên tri giác của chúng ta.

H: Vậy là không bao giờ có sự sáng tạo trong ảo tưởng ư?

Bohm: Nói chung là không, vì nó dựa trên quá khứ. Tôi nghĩ có sự khác biệt thực sự giữa trí tưởng tượng sáng tạo và ảo tưởng. Ảo tượng có thể nom như rất có tính sáng tạo và cảm thấy như rất có tính sáng tạo, nhưng có lẽ không phải. Thậm chí bạn có thể ảo tưởng rằng bạn là người có nhiều sáng tạo lắm. Cái gì cũng có thể trở thành ảo tưởng; sức mạnh của ảo tưởng vượt khỏi mọi giới hạn. Nhưng nó cũng có cái hữu dụng của nó – chẳng hạn, nếu bạn hình dung theo lối tưởng tượng cách sắp đặt đồ đạc trong một căn phòng theo kiểu khác đi, thì cái ảo tưởng này cũng có thể rất có ích.

H: Liệu tri giác về các hình ảnh thông qua ngôn từ bản thân nó có phải là một loại hình cảm giác mang tính vật lí của tri giác hay không?

Bohm: Nó thuộc quá trình vật lí, đúng vậy. Nó rất giống với quá trình xảy ra khi bạn thật sự nhìn thấy hoặc nghe thấy, nhưng nó ít nhiều đều đến từ quá khứ.

H: Thế thì nó thực sự là một thứ mang tính vật lí trong não và trong cơ thể, và phần nào đấy tất cả điều đó đều xuất hiện cùng một lúc, phải vậy không?

Bohm: Vâng.

H: Theo tôi thấy thì một phần của vấn đề nằm ở chỗ chúng ta đã và đang ghìm không để cho những từ ngữ và những hình ảnh được bộc lộ ra vì chúng xuất hiện quá nhanh. Ta quá quen với chúng nên không nhận thấy chúng hiện diện. Thế rồi khi ta cho là ta đang tri giác một cách thuần túy, ta cần ý thức được rằng từ ngữ và hình ảnh đang bóp méo tri giác để tạo khoái cảm. Vậy thì loại nhìn thấu nào có thể phá vỡ được thói nghiện khoái cảm ấy?

Bohm: Trước hết hãy bỏ thời gian xem xét nó đã. Trong ảo tưởng của mình, bạn có thể tạo ra khoái cảm, tạo ra sự đau đớn, sợ hãi, mọi thứ, vì lúc này, xuất phát từ kí ức, bạn đang sản sinh ra một kinh nghiệm giống với kinh nghiệm có thể được tạo ra khi nó không phải là kí ức. Nếu đủ nhạy cảm, bạn luôn luôn có thể bảo rằng ở đây có sự khác biệt, nhưng ảo tưởng lại quá quyến rũ khiến bạn không còn đủ nhạy cảm đối với sự khác biệt. Thực tế, rất có thể bạn không muốn biết là có khác biệt, vì nó luôn tạo ra một phản xạ, phản xạ đó nói rằng: “Cái này thật tuyệt nên tôi chẳng muốn biết gì thêm nữa. Tôi không muốn biết nó. Tôi không thích có bằng chứng nói rằng có khi không phải thế.” Ai ai cũng đều quen thuộc với kinh nghiệm đó cả.

Nhưng bạn có thể nhìn thấy rằng về cơ bản nó xuất phát từ kí ức, từ tư duy. Bằng vào ngôn từ bạn có thể tạo ra những ảo tưởng hoang đường. Ví dụ, đó chính là cách mà hoạt động quảng cáo thường xuyên làm. Sự kết hợp giữa ngôn từ và hình ảnh tạo ra ảo tưởng. Mục đích ở đây là tạo ra kì vọng hay cảm giác thích thú mà bạn sẽ hưởng, hay những lợi thế bạn sẽ có được với sản phẩm mà họ đang rao bán. Nó nhằm khiến cho bạn tưởng tượng ra điều gì đó về sản phẩm đó. Phải bỏ rất nhiều công sức cho những quảng cáo như vậy. Người ta suy nghĩ kĩ lưỡng, và rồi hình ảnh phải được chọn lọc sao cho ăn khớp với ngôn từ. Bạn có thể thấy quá trình ấy đang diễn ra khắp mọi nơi như thế nào. Các nhà quảng cáo không hề phát minh ra nó. Họ chỉ lợi dụng những thứ đã có từ bao đời nay.

Bạn sẽ phải hỏi “còn nếu có một sự nhìn thấu hay một tri giác thì sao?”. Chúng ta đâu có phải cứ muốn là làm được điều ấy. Nhưng theo tôi thì ta có thể có cái khả năng nhìn thấu rằng tư duy và ảo tưởng có thể tạo ra một cảm giác về “thực tại”.

H: Tôi cảm thấy như tôi có cái khả năng nhìn thấu này. Nhưng do cái khoái cảm mà người ta có được nhờ vào ảo tưởng ấy – do trong bộ não hay đâu đó có một mối liên kết, mà bằng vào đó những ảo tưởng tạo ra sự khoái cảm hay tạo ra sự đau đớn – nên hình như bằng cách nào đấy người ta phải phá vỡ mối liên kết đó.

Bohm: Đúng thế, bạn cần có thêm một khả năng nhìn thấu nữa vào nguyên nhân vì sao tâm trí có thể thoát khỏi những hậu quả của cái nhìn thấu đầu tiên. Mặc dầu chúng ta có được một sự nhìn thấu ở cấp suy luận, những phản xạ này vẫn đang có tác dụng.

Vậy có một việc phải làm là làm quen thêm với nó bằng việc nhìn thẳng vào nó, bằng cách sử dụng những ngôn từ có khả năng sản sinh được ra niềm khoái cảm theo đúng kiểu ta từng nói về việc dùng ngôn từ để gợi lên sự tức giận hay sợ hãi, và theo dõi diễn tiến của nó. Tôi nghĩ nếu kiên trì và rồi từ những ngôn từ ấy tạo dựng được niềm khoái cảm, thì cuối cùng bạn sẽ có được cái cảm giác rằng nó có tính cơ giới, rằng nó chỉ là cái gì đó đang diễn ra trong cơ thể. Nó không có ý nghĩa gì lớn lao lắm.

H: Tôi nhìn sự việc hơi khác một chút. Hãy cứ cho là tôi có được cái khả năng nhìn thấu ấy đi. Kiểu gì rồi phản xạ cũng xuất hiện, mối kết nối thần kinh vẫn có đó, nhưng nó không có chỗ dựa. Nó giống như nói: “ừ thì vì thế nó đang làm việc của nó, nhưng tôi cũng không tin nó hết được.”

Bohm: Điều đó làm nó yếu đi. Nhưng nếu bạn mong muốn, bạn có thể thử cố làm cho phản xạ ấy thực sự có tác dụng lúc nó đã bị yếu đi này.

Trước khi nó yếu đi, bạn không thể làm được điều đó. Bạn mà còn vẫn tin cậy vào phản xạ thì không thể có ý tưởng làm điều đó được. Thế nên bạn có thể nói: “tôi không tin cậy nó nữa và do đó, tôi có thể cố làm cho phản xạ có tác dụng” và rồi bạn sẽ thấy rõ hơn rất nhiều rằng đó là một phản xạ.

H: Nếu làm theo gợi ý của ngài thì liệu có khiến cho quá trình rũ bỏ các khớp nối thần kinh diễn ra nhanh hơn không?

Bohm: Vâng, rất có thể. Nó có thể làm gì đó, và rồi đến một giai đoạn nào đó bạn sẽ có được một cái nhìn thấu để thấy rằng tất cả chẳng có nghĩa lí gì – đơn giản chỉ là một quá trình mang tính cơ giới mà thôi.

H: Nhưng khi đạt đến đó, sự nhìn thấu không còn là cái đang xảy ra liên quan đến ngôn từ nữa. Đúng hơn, nó là một khả năng tri giác trực tiếp về sự giao chéo với nhau giữa ảo tưởng và tri giác, trong quá trình mà điều đó xảy ra.

Bohm: Đúng, thế là bạn có được một cảm nhận trực tiếp về cái nói trên; và điều này bắt đầu loại bỏ những phản xạ trước đó từng bảo với bạn rằng mọi cái không phải thế. Cái việc đang khiến ta lẫn lộn chính là việc ta vẫn còn có nhiều phản xạ nói với ta rằng mọi cái không phải thế.

H: Tôi không biết có phải vấn đề nằm chính ở đó không, nhưng còn cái phản xạ khiến ta phải truy vấn tất cả các phản xạ khác thì sao?

Bohm: Bạn cần phải truy vấn những phản xạ này bởi vì bạn đã có cái nhìn thấu, rằng có một số lượng rất lớn các phản xạ và chẳng có lí gì bảo chúng là thông minh cả. Đó chính là nhìn thấu.

H: Tôi nghĩ đến phản xạ như một nút nhấn. Vậy thì khi nút được nhấn, liệu có thể có một cái nhìn thấu vào hoạt động của nó trong khi nó diễn ra, hơn là về sau mới nghĩ về nó không?

Bohm: Vâng, hay thậm chí trước cả khi nó xảy ra, bởi vì bạn đã nhìn vào nó một cách thật thấu suốt đến mức bạn không còn mong muốn nhấn cái nút đó nữa.

Bohm: Vâng, nhưng đối với sự nhìn thấu ta phải làm phép thử chứ, vì ta lúc nào cũng thừa sức có ảo tưởng là mình có khả năng nhìn thấu. Ta có thể làm phép thử đối với thể nhìn thấu bằng cách nhìn nhận xem liệu nó có thể đứng vững một cách hợp lí và logic hay không, liệu ta có đủ khả năng làm việc đó hay không, v.v. Bạn phải luôn luôn quan sát nó, bởi vì rất dễ có ảo tưởng về một khả năng nhìn thấu nói rằng bạn đã có được một cái nhìn thấu.

H: Chúng ta phải thận trọng khi dùng từ “nhìn thấu” và phải nhạy bén trong việc phân biệt được đâu là nhìn thấu? Không phải tôi đang nhìn thấu, mà là sự nhìn thấu nó xảy đến.

Bohm: Hoặc còn phải nhạy bén trong việc phân biệt được đâu không phải là nhìn thấu.

H: Tư duy cũng có thể đánh lạc hướng mình. Nó có thể bịa ra ấn tượng về một sự nhìn thấu, nhưng cái đó lại chẳng liên quan gì đến nhìn thấu.

Bohm: Vâng, đó chính là trí tưởng tượng mang tính phản xạ. Bạn có thể có một hình ảnh tưởng tượng xuất phát từ kí ức, và hình ảnh tưởng tượng này chính là một phản xạ; như vậy ở đây nó không thật sự quan yếu. Nhưng khi nhìn thấy một cái gì đó mới mẻ, bạn thậm chí có thể nói rằng sự nhìn thấu hầu như là một loại trí tưởng tượng sáng tạo, nhưng là loại trí tưởng tượng thực sự tác động trực tiếp vào quá trình vật chất.

Cấu trúc thần kinh, các khớp nối thần kinh v.v, là vô cùng phức tạp mà kí ức không bao giờ chạm được vào tất cả. Kí ức không bao giờ có thể biết hết được tất cả những thứ đó, bạn không bao giờ biết hết được. Nhưng sự nhìn thấu có khả năng bắt gặp tất cả đúng như mọi cái thực sự vốn thế vào một khoảnh khắc ngẫu nhiên, phi thời gian – mấu chốt là chỗ đó. Nếu cần đến thời gian, nó không bắt gặp được.

H: Tôi thiết nghĩ, dưới một góc độ nào đó, bạn hầu như có thể nói rằng chưa từng ai “có” được một khả năng nhìn thấu – rằng có một điều gì đó có thể xảy ra bên trong một cơ thể cụ thể nhất định, và khi việc đã rồi, ai đó có thể nói rằng đó chính là một cái nhìn thấu. Nhưng dù là bạn tưởng tượng ra nó hay đó là một cái thực sự đã xảy ra, thì nó cũng chẳng bao giờ là cái mà bạn có, mà hẳn chỉ có thể là bên trong cơ thể có một tổ chức khác thường mà thôi.

Bohm: Vâng. Cái nhìn thấu này chợt đến và thế là trong cơ thể có một sự thay đổi. Nhìn thấu có vẻ như đến từ những vùng sâu thăm thẳm của sự vi tế – thậm chí có lẽ vượt ra ngoài cái cơ thể mà chúng ta biết. Dù nó có từ đâu đến đi nữa, cái quan trọng là nó có tác động trực tiếp trên bình diện lí-hóa của cơ thể, song hành cùng mọi thứ khác. Như vậy nó sẽ thực sự tác động đến bạn một cách rõ rệt.

H: Chúng ta ai cũng sẵn sàng có được sự nhìn thấu chứ? Và sự xuất hiện của nó có gây ra cảm xúc mạnh không?

Bohm: Ta không biết nó từ đâu đến. Tôi cho rằng chúng ta ai cũng sẵn sàng có được cái nhìn thấu. Nhưng phản xạ của tư duy đang liên tục kháng cự và đề phòng chống lại nó, bởi vì nhìn thấu có thể bị coi là mối đe dọa đối với cấu trúc mà bạn muốn duy trì.

H: Nhìn thấu tác động đến việc điều kiện hóa; thậm chí nhiều trường hợp điều kiện hóa bị tiêu tan, không còn lại bao nhiêu.

Bohm: Đó là một mối đe dọa đối với sự điều kiện hóa, vâng. Nhưng sự điều kiện hóa thực ra không có nhiều ý nghĩa đến thế. Tuy nhiên, sự điều kiện hóa có chứa một phản xạ thông báo với bạn rằng điều kiện hóa là rất quan trọng.

Phải chăng vì thế ta nên nghiên cứu đến vấn đề hình ảnh của bản ngã. [44] Ta cũng đã phần nào đả động đến vấn đề này khi nghĩ về việc trí tưởng tượng và ảo tưởng cho ta cảm thức về một “cái tôi” có thể rất khác với cảm thức thông thường của bạn. Rồi bạn thực sự cảm thấy nó, trải nghiệm nó. Hoặc như bạn có thể đang xem ti vi, xem một vở kịch hay một cuốn phim, rồi bạn đắm mình vào trong các nhân vật và cảm thấy nhân vật đó thực sự là chính bạn. Thực ra thì bạn đang thể nghiệm tính cách nhân vật ấy thông qua bản thân bạn, bởi vì hình ảnh trên ti vi chẳng là gì ngoài vô số những đốm sáng hiện trên màn hình. Tất cả những thứ bạn nhìn thấy trên đó thật ra chính là bản thân bạn.

Và đó là cách mà bạn tri giác mọi thứ. Rõ ràng là có một loại trí tưởng tượng liên quan chặt chẽ với việc nhìn hình ảnh trên màn hình ti vi. Nếu nhìn thật kĩ bạn sẽ thấy không có gì ngoài ánh sáng nhấp nháy. Nhưng bạn nhìn thấy người, cây cối, các nhân vật; bạn nhìn thấy những xung đột về tình cảm và nhìn thấy sự nguy hiểm; bạn nhìn thấy sự giận dữ, sự sợ hãi, niềm hứng khởi. Nhưng tất cả chính là bạn. Tất cả những cái đó là trí tưởng tượng được hòa tan vào hình ảnh trên màn hình – y như nó được hòa tan vào tri giác. Vậy là khi xem ti vi, những gì bạn trải nghiệm phải đến từ cái gì đó giống như trí tưởng tượng. Nếu không thì nó có thể đến từ đâu nữa nào?

Việc tư duy tham gia vào tri giác ngày càng trở nên rõ ràng. Tuy thế, tư duy không biết rằng nó đang làm việc đó. Thật ra, phần lớn thời gian bạn không cần thiết phải biết. Tuy nhiên, bạn vẫn phải biết khi nào thấy có sự thiếu mạch lạc. Vấn đề là thế này: nếu thấy có sự kháng cự chống lại việc nắm bắt nó khi bạn đang cần nắm bắt, nếu có những phản xạ chống lại việc nắm bắt, thì là có vấn đề rắc rối.

Bạn không thể theo dõi tất cả những cái đó mỗi lần xem ti vi bằng cách nghĩ rằng “ờ, đây thật ra là chính mình, là chính mình đang đặt mình vào màn hình ti vi”. Nó giống như chiếc cầu vồng. Tôi nhìn thấy cầu vồng; nhưng theo như vật lí học thì đó chỉ là những hạt nước mưa đang rơi và ánh sáng bị khúc xạ phát ra từ chúng mà thôi. Khi bạn xem ti vi thì hiện tượng xảy ra cũng giống như thế. Ở trên đó là những đốm sáng, rồi bạn thấy đủ mọi chuyện đang diễn ra; nhưng là cùng một bản tính như cầu vồng. Hiện thực hơn thì phải nói rằng, trong cái ti vi có một quá trình đang diễn ra – một quá trình phức tạp gồm có ánh sáng, có các dây thần kinh của bạn, có tất cả mọi thứ. Bạn không thể nắm bắt được tất cả những thứ ấy. Nó là một sự biểu hiện; vở diễn trên ti vi đang biểu hiện một cái gì đó ở rất nhiều cấp độ khác nhau. Và rồi những gì bạn nhìn thấy và trải nghiệm chính là sự biểu hiện đó.

Tôi đang cố nói rõ hơn vì đâu điều này lại thực sự là một kinh nghiệm rất phổ biến và không có gì khó hiểu cho lắm. Ta đang hòa trộn trí tưởng tượng của mình, quá khứ của mình, kiến thức của mình vào cái ta đang nhìn thấy – không phải là “chúng ta” đang làm thế là tự nó thế. Và không nhất thiết thế là xấu. Nó có thể rất thiết yếu trong nhiều bối cảnh. Tuy nhiên, ta sẽ rơi vào nguy hiểm nếu không nhìn thấy được điều này đang diễn ra, nhất là khi có một sự kháng cự không cho ta nhìn thấy. Và rồi chúng ta bị điều kiện hóa khiến chính mình kháng cự lại việc nhìn thấy cái đang diễn ra. Đây đích thực là nơi mà sự tự mình đánh lạc hướng mình xuất hiện.

Do vậy mà gay go hơn cả chính là vấn đề xung quanh hình ảnh của bản ngã. Chúng ta có một hình ảnh của bản ngã gần như tương tự với một chương trình truyền hình đang diễn ra bên trong; nó diễn ra trong hệ thần kinh và đại loại thế. Và rồi những hình ảnh này lại có nhiều bộ phận. Một bộ phận thì giống như có “ai đó” ở bên trong mà bạn đang nhìn người đó. Một bộ phận khác thì giống như có “ai đó” đang nhìn. Chúng ta có những từ khác nhau để chi những cái này.45 Có một từ “tôi” ứng với chủ thể, với người đang nhìn, người đang hành động, đang làm, đang quyết định mọi thứ, người có “ý chí”. [46] “Ý chí” với “quyết định” và “ý định” ở đây chỉ là một. “Tôi đã quyết định rồi” có nghĩa là có ý chí cao. “Tôi” là tác nhân mang tính chủ động: tôi muốn, tôi quyết, tôi thấy, tôi chọn, tôi nghĩ. Và cũng có một cái “tôi” để mọi cái tác động đến. “Tôi” trong trường hợp này là một đối tượng, mọi việc xảy đến với tôi. [47] Vậy là hai cái tôi đó thống nhất trong một quan niệm cơ bản là “bản ngã” [48]. Tôi chủ thể và tôi đối tượng là hai mặt của bản thân tôi. Vậy là có cái tôi bị động, có bản thân tôi, và có tôi. Đó là quan niệm về bản ngã.

Chúng ta đã thảo luận vấn đề này nhiều lần, rằng bản thân cái từ “tôi” mang tính chủ thể này hầu như được hiểu giống như từ Thiên Chúa. Đó là nguồn gốc tối thượng của vạn vật. Trong câu chuyện về Moses có thuật lại rằng, khi ông đến chỗ bụi gai cháy trên sa mạc và hỏi giọng nói cất lên kia tên là gì, giọng nói kia trả lời rằng tên Ngài là “Ta là chính Ta”. “Chính Ta” là tên của Người và “chính Ta” cũng là họ của Người. Rồi một lúc sau, giọng nói lại cất lên một lần nữa rằng “Ta” chính là tên của Người, khi Moses hỏi: “tôi sẽ nói ai cử tôi đến”. Giọng nói vang lên “Ngươi hãy nói rằng 'Ta' cử ngươi đến”. Rõ ràng “Ta” được coi là tên gọi của vị Thiên Chúa vô cùng linh thiêng, không cần phải nhắc lại, và cứ thế. [49]

Đó là một loại tri giác – cho rằng câu nói “chính Ta” tự bản thân nó biểu hiện chủ thể thuần túy, nguồn gốc thuần túy, biểu hiện cái một, cội nguồn của vạn vật; còn cái “tôi” ―bị động‖ kia thì biểu hiện đối tượng. Nhưng chúng ta đồng nhất hay đánh đồng “Ta” với cái “tôi” ―bị động‖, rồi nói “tôi thế này, tôi thế nọ, tôi chính là tôi đây, tôi là tất thảy những gì được quy cho là tôi”. Tuy nhiên, một vấn đề rắc rối nảy sinh khi đánh đồng “Ta” với “tôi” ―bị động‖, vì cái “tôi” luôn bị giới hạn; “ngươi, kẻ bé mọn kia, ngươi là ai mà dám nói ngươi là lớn lao, là cái 'Ta' vĩ đại?”. Trong khi “Ta”, không cần thêm gì cả, không có bất cứ giới hạn nào tiềm ẩn hết.

Điểm cốt yếu ở đây là, cái “tôi” ―bị động‖ luôn luôn bị giới hạn, nhưng ta cảm thấy cái “tôi” này cũng là một giống như cái “tôi là”, giống như cái “Ta”. Thế là điều đó tạo ra một sự xung đột. Mọi người đều muốn là “Ta vĩ đại nhất. Ta tốt nhất. Ta tuyệt vời nhất.” Hình ảnh chúng ta có về mình là vĩ đại, huy hoàng, chói lọi. Và rồi thiên hạ xúm lại bảo rằng “Mi chẳng là gì cả. Mi tự phỉnh mình đấy thôi. Mi chẳng là ai cả.” Nó làm cho hình ảnh kia xẹp xuống, biến thành một cú sốc, và gây ra một nỗi đau lớn – ảo tưởng về niềm vui âu cũng theo đó biến thành ảo tưởng về nỗi đau, về sự sợ hãi và về nỗi kinh hoàng. Trong cơn ảo tưởng, bạn có thể lâm vào mọi sự.

Nhưng cũng thật khó mà giữ được tư duy có trật tự về cái “tôi” này và cái “tôi” kia, khiến cho nó hợp lí, khiến cho nó mạch lạc. Mọi người không biết làm cách nào để giải quyết được mâu thuẫn ấy giữa cái “tôi” này và cái “tôi” kia. Mọi người bảo: “Cớ gì các ngươi đối xử với tôi như với một đồ vật. Tôi không thích thế đâu. Thế là xúc phạm tôi, làm tôi tổn thương.” Còn xã hội thì lại bảo: “Mi tưởng mi là ai mà dám cho rằng mi khác với những người khác và không nên đối xử với mi như với một đồ vật? Mi ngỡ mi không bị giới hạn sao?” Thế nhưng theo định nghĩa thì cái “tôi” kia đúng là đồ vật thật.

Rất có thể đứa trẻ khi còn bé nghĩ rằng không đâu có giới hạn cả, rằng nó là tất cả. Nó nặn ra ý nghĩ đó, phản xạ đó, ảo tưởng đó. Chúng ta không biết liệu điều đó có phản ánh một cái gì thực hay không. Cái quan trọng ở đây là việc một phản xạ được thiết lập, nói rằng: “tôi đây”. Khó có thể hình thành một nhân dạng nếu không làm điều đó. Nó cũng còn phụ thuộc vào những người khác bảo cho nó biết nó là ai, là cái gì. Tuy nhiên, cái thực thể vĩ đại, huy hoàng và chói lọi mà nó nhìn thấy ở bên trong, không phải luôn luôn thấy được từ bên ngoài. Những người khác không khuyến khích điều này. Họ có thể đối xử với đứa bé như Thượng Đế khi nó còn bé tí, nhưng rồi bỗng tới một lúc nào đó họ không làm thế nữa.

Vậy bạn sẽ gặp phải ngay cái mâu thuẫn ghê gớm này. Bạn có cái mà Freud gọi là hình ảnh narcissistic ―tự si‖. Có một câu chuyện cổ tích Hi Lạp kể về chàng Narcissus, người một hôm nhìn thấy dưới nước một chàng trai khôi ngô tuấn tú nhưng không nhận ra đó chính là bóng của mình. Chàng phải lòng cái bóng, nhưng không bao giờ chạm được vào, nên ngày càng ốm yếu, gầy mòn rồi chết. [50] Điều trớ trêu là chàng đã có được cái mà chàng ao ước, chính chàng cái mà chàng ao ước.

Thế nhưng chàng không tin vào điều đó hay không muốn chấp nhận nó. Chàng đã nói rằng “đó là một người khác, người mà ta cần”.

Mấu chốt ở đây là: khi mình tạo ra trong trí tưởng tượng của mình cái hình ảnh của bản ngã đó, thì rồi nó sẽ trở thành cái mà mình ao ước. Và rồi ta tự bảo: “Nó ở kia, còn xa tôi, tôi phải cố đến được với nó.” Nhưng đó lại là một ảo tưởng khác, một hình bóng khác. Và nó tạo ra cái cảm giác “tôi cần phải có nó”.

Cảm giác về sự thiết yếu tạo ra sức mạnh và quyền lực lớn nhất trong đời sống con người. Bạn không thể hóa giải được nó. Và đứa trẻ không bao giờ thật sự nhận biết điều này – không chỉ trong xã hội hiện nay của chúng ta mà có lẽ trong mọi xã hội mà chúng ta từng biết đến.

Do đó, khi hình ảnh này xẹp đi, thì nó gây ra những thương tổn. Lúc này cái ảo tưởng về một thực thể vĩ đại, vinh quang, chói lọi biến thành cái ảo tưởng về một kẻ nào đó, kẻ bị khinh miệt, bị xem thường và bị giới hạn – kẻ không là gì cả, đại loại là thế – và tình trạng ấy tạo ra nỗi đau, tạo ra cái nhu cầu cần có người khác bảo với mình là mình vĩ đại tới cỡ nào, và nó còn tạo ra cái cảm giác “tôi cần làm điều gì đó và có cái gì đó để chứng tỏ cho mọi người thấy tôi vĩ đại đến cỡ nào”, hay những gì đại loại như vậy.

Cảm giác đó có một mãnh lực ghê gớm. Tất cả những thứ đó chế ngự đời sống con người một cách vô cùng tàn khốc. Và kẻ vĩ cuồng thường nói “ta phải chinh phục thế giới để thiên hạ biết ta là ai”, như Alecxander Đại đế đã từng làm. Tương truyền rằng cả ông ta lẫn mẹ ông ta chưa bao giờ thân thiện với người cha. Ông ta giống hệt mẹ, và không hiểu vì sao hai người đều ghét người cha. Có lẽ ông cảm thấy một sự cần thiết mãnh liệt phải tỏ cho cha mình thấy mình vĩ đại nhường nào, và để làm điều đó ông đã đi chinh phạt thiên hạ. Nói cách khác, ông ta cứ phải mãi mãi đi chinh phạt thiên hạ, không bao giờ được dừng lại, vì ông ta phải luôn luôn nuôi dưỡng cái hình ảnh ấy.

H: Nhưng rồi triết gia Diogenes đã hạ bệ ông ta. Diogenes đang sống ngoài thiên nhiên, tận hưởng ánh mặt trời thì Alecxander Đại đế đến đứng trước mặt, che khuất một chút ánh nắng. Nhà triết học đã nói ông: “Ngài làm ơn đi cho. Ngài đang chắn mất cái mà ngài không thể cho tôi – ánh mặt trời.” Sự thông tuệ của nhà triết học đã đánh gục hình ảnh của vị hoàng đế.

Bohm: Tôi thì cho rằng có lẽ Alecxander có thể luôn luôn ngờ rằng không hoàn toàn đúng như vậy. Ý tôi là ông ta không dốt đến thế; thật ra ông ta rất thông minh. Nhưng ông ta bị hình ảnh đó trói chặt. Và rồi nhờ vào nó mà ông đã có được một quyền lực vô biên. Mọi người sẵn sàng làm bất cứ điều gì ông muốn chỉ vì ông có cái quyền lực ấy. Bạn có thể thấy toàn thể mọi việc vận hành ra sao. Ai ai cũng có một thứ hình ảnh y như thế, một hình ảnh về sau đã bị hạ bệ. Tuy nhiên, khi binh sĩ nhìn Alecxander Đại đế như một niềm vinh quang chói lọi thì họ cũng sẵn sàng đồng nhất mình với nó; họ sẽ vẫn thường cảm thấy “tôi cũng khác gì đâu”. Vậy cho nên họ cống hiến tất cả cho ông ta. Ông chỉ đâu họ đánh đấy. Và thế là họ trở nên vô cùng dũng mãnh.

Các bạn có thể nhìn thấy quyền lực và sức mạnh của tất cả loại trí tưởng tượng và ảo tưởng này. Loại sự việc ấy đã và đang sản sinh ra những ảnh hưởng như thế trên khắp thế giới. Cả Hitler, rồi thì đủ mọi loại nhân vật khác. Chúng ta chưa bao giờ giải quyết được vấn đề này.

Vấn đề giờ đây là, hình ảnh của bản ngã nói trên bao gồm hai phần. Thoạt nhìn thì có vẻ thế là hợp lí, vì kể cả dưới góc độ vật lí cũng có một cái “tôi” đang nhìn và một cái “tôi” đang được nhìn – một cái “tôi” làm chủ thể và một cái “tôi” làm đối tượng. Tôi nói: “Thân thể tôi đấy, tôi đang nhìn nó”. Thân thể là đối tượng của cái nhìn. Nhưng tôi cũng lại là chủ thể nữa – “tôi” chính là người đang nhìn. Xem ra là tôi đang nhìn chính mình – một hành động phân thân. Có lí lắm chứ? Tôi tự mình tắm rửa, tôi tự cạo râu, tôi thường làm đủ thứ việc đại loại như thế.

Và rồi khi ta nhào nặn lên hình ảnh bên trong của mình thì lại thấy hình như có một cái “tôi” làm chủ thể đang chứng kiến một cái “tôi” đối tượng. Hình như đâu đó sâu trong lục phủ ngũ tạng có một đối tượng, và phía trên đầu lại có ai đó đang nhìn. Ảo tượng sẽ dàn xếp điều này khá dễ dàng – ta đã nói với nhau về việc tư duy biến thành tri giác như thế nào: một khi tư duy nói rằng đó là cách mọi việc phải diễn ra, thì bằng vào tri giác ta cũng thấy mọi việc là như thế.

Nhưng vậy thì nếu “cái” được nhận biết bằng tri giác theo cách ấy thật sự tồn tại, thì nó là vô cùng có ý nghĩa và cần trân trọng, phải vậy không ạ? Nó hẳn có thể là vị Thiên Chúa vĩ đại, vinh quang, lộng lẫy – hay ít nhất cũng nên là thế. Nó hẳn phải là tâm điểm của cuộc hiện tồn và của vạn vật. Nó là thế đối với đứa trẻ khi còn bé. Và thực ra thì đối với ai cũng vậy, nó không bao giờ mất đi. Bởi thế mà ở đây, cái bên trong mình có một ý nghĩa và tính tất yếu vô biên. Nó không chỉ là quá trình hóa học đơn thuần mà là quá trình hóa học có một giá trị rất lớn bởi tầm quan trọng và tính tất yếu gắn liền với ý nghĩa quá trình đó. Chúng song hành với nhau bởi vì ở đó có những tác động hóa học rất lớn đang diễn ra – những tác động sinh lí học thần kinh của một thứ hình ảnh huy hoàng đến thế, một hình ảnh được tri giác coi là thực tại, và kèm vào đó là ý nghĩa to lớn mà nó được gán cho. Do đó, khi tất cả những cái này không vận hành suôn sẻ thì nó sẽ thực sự xáo trộn hệ thống.

Như vậy là cái hình ảnh của bản ngã này trở thành tâm điểm. Và mọi cái sẽ được sắp đặt để nuôi dưỡng và duy trì nó ở mức độ tốt nhất có thể. Chúng ta đang cố sắp đặt tư duy theo hướng này. Chúng ta cố tìm cách hướng cho mọi người ủng hộ nó. Chúng ta cố tạo ra những tình huống, như việc tích góp của cải – mọi người sẽ cố kiếm thật nhiều tiền để tỏ ra họ thật sự là những người đáng nể. Họ làm ra thật nhiều tiền hơn cần thiết để những tưởng muốn làm gì cũng được. Họ không ngừng lao vào kiếm tiền, mà nếu kiếm tiền không thôi thì cũng chưa đủ, họ còn mua sắm đủ thứ trên đời – vượt xa mức mà họ cần – để tỏ ra rằng họ là những người đáng trọng nể.

Tại sao người ta làm thế? Điều đó được mọi người công nhận và chắc chắn là họ sẽ làm đúng như thế. Nhưng tại sao chứ? Ẩn đằng sau việc này là cái gì đây? Chúng ta phải nghiên cứu xem. Bạn có thể thấy rằng ở đây có một quá trình đang diễn ra, dính dáng đến toàn bộ hệ thống. Thế rồi mọi người sẽ người này ủng hộ người kia trong tất cả những chuyện này, vì mọi người phải nhờ vào người khác mới có được nhận dạng của mình – ai cũng nói “anh là thế này, anh là thế kia, anh là thế nọ”. Hay bằng cách khác, bạn có được nhân dạng của mình là nhờ vào những gì bạn làm được, hoặc nhờ vào xuất xứ của bạn, vào dòng tộc của bạn, vào đủ thứ. Thế là cảm thức về nhân dạng mà bạn có được xây dựng lên từ tư duy, nó bảo rằng “cái đó quan trọng vô cùng”. Bạn phải chứng tỏ được bạn.

Nhưng thực ra, ngoài tư duy là một nền tảng nông cạn ra thì cái cấu trúc này chẳng có bất cứ cơ sở nền tảng nào khác nữa cả. Và vì cái cấu trúc này bề ngoài xem ra là quá quan trọng, cho nên việc chứng minh rằng nó có một nền tảng vững chắc cũng lại rất quan trọng. Bằng không thì việc coi cái cấu trúc tối quan trọng ấy không hề có nền tảng gì hết là một việc làm đáng báo động.

H: Tôi cứ tự ngẫm xem mình là ai, rồi thấy rằng cùng lúc có nhiều hình ảnh về mình – mỗi đứa con tôi có một hình ảnh khác nhau về tôi, chồng tôi, rồi các bạn bè tôi và bất kì ai khác cũng vậy. Nhưng tôi cảm thấy mình đâu phải là những hình ảnh ấy, mà là một cái gì khác cơ. Thậm chí “cái gì khác” ấy cũng thành vấn đề để phải suy nghĩ, vì tôi nghĩ cứ mỗi ngày mình lại thay đổi khác đi. Tôi nghi hoặc về thân xác của chính mình, rồi tự hỏi liệu tôi có ít đi chút nào hơn là cái mà tôi nghĩ về mình, nếu tôi thiếu đi một cánh tay, chẳng hạn thế, so với hiện nay tôi đang có. Thế là tôi quả quyết rằng tôi không phải là thân xác của tôi. Có một cái gì khác mà tôi không cắt nghĩa nổi đó là cái gì.

Bohm: Vấn đề là chính ở chỗ ấy: ta làm cách nào tìm ra được ta là ai? Bạn đâu có tồn tại được mà không có thân xác, nhưng thường mọi người chẳng mấy ai lấy đấy làm trọng. Nhân dạng của họ nằm ở chỗ họ làm được gì, hay họ có được cái gì và những mối quan hệ nào; những cái đó thường được lấy làm trọng hơn. Mọi người sẵn sàng vì những thứ đó mà hi sinh thân xác của mình. Cũng có nhiều người coi trọng thân xác mình. Điều này có thể thay đổi tùy theo. Bạn có thể đồng nhất nhân dạng mình gần như với cái gì cũng được – với tổ quốc bạn, với tài khoản ngân hàng của bạn, và với những gì bạn thành công, với đủ mọi thứ.

Nhưng xem ra toàn bộ sự việc chẳng có lấy một nền tảng nào. Vậy thì, nếu cái bản ngã này là cái ta mặc định là hiển nhiên, thì việc tìm cho nó một nền tảng thật sự vững chắc là việc làm rất có ý nghĩa. Vì cớ ấy mà ta cảm thấy khẩn thiết phải tìm cho nó một nhân dạng.

Tuy nhiên, mọi người không chắc chắn cho lắm về nhân dạng của mình. Câu hỏi ở đây là: ta có cần có một nhân dạng để làm gì không nhỉ? Hiểu theo một nghĩa hạn hẹp nhất định thì ta cần phải biết ta là ai – chúng ta có thẻ căn cước, có những kí ức riêng, những nhu cầu riêng, những mối quan hệ riêng nhất định, và nhiều thứ khác nữa. Ta gìn giữ đâu vào đó hết thảy những cái nói trên. Thế nhưng liệu nhân dạng có phải là cái có ý nghĩa tối thượng như nó xem ra đúng là thế hay không?

H: Có phải nhân dạng phụ thuộc vào cái hệ thống mà ngài đang nói đến không?

Bohm: Tôi nói rằng hệ thống cho bạn một nhân dạng. Không có hệ thống thì bạn cũng không lấy đâu ra nhân dạng. Toàn bộ hệ thống tư duy đang lan tỏa ra khắp thế giới chính là cái cho bạn một nhân dạng, cho bạn chỗ đứng trong thế giới, v.v. Không có hệ thống tư duy thì bạn sẽ duy trì cái nhân dạng đó như thế nào? Nhân dạng chỉ có thể tồn tại về mặt xã hội và về mặt văn hóa. Dù ta có cố gắng đồng nhất mình với Thượng Đế hay một cái gì giống như thế đi chăng nữa, thì ở đây vẫn một lần nữa chính nền giáo hóa đã tạo cho bạn cái tư duy khiến bạn có thể làm như thế. Đấy là điều chúng ta cần ghi nhớ.

Có một quan niệm xưa cho rằng: “Tôi không biết mình là cái gì. Mình là gì thì không biết, nhưng nó không ngớt tự bộc lộ.” Đó là một cách nhìn khác đối với vấn đề ta là ai? Ta hãy xem xét nó một chút. “Tôi” là cái không biết. Nếu có cái gì đó vô hạn – vũ trụ, hay cái gì đó bên ngoài vũ trụ – thì rất có thể tôi coi cái đó là nền tảng của mình. Có khi toàn bộ thực thể vật lí, mà có khi toàn bộ vật chất nữa cũng tinh vi một cách vô cùng. Và còn một cái gì nữa ẩn sau. Do đó, cho dù tôi là gì đi nữa, thì cái tôi là đó cũng phải có nguồn gốc của nó. Đó là cái ta không biết, nhung tự nó bộc lộ nó. Chúng ta không cần đến khái niệm về một nhân dạng làm gì, không cần đến một nhân dạng mang ý nghĩa tối thượng mà ta cứ tiếp tục giữ khư khư, bởi vì điều đó sẽ dẫn tới chỗ bắt buộc ta phải thay đổi những phản xạ của mình. Ngay khi ta đồng nhất mình với một cái gì đó, thì các phản xạ của ta cũng sẽ vận hành theo hướng đó – nó rất quan trọng, rất “tất yếu”. Và ta sẽ cứ muốn ôm khư khư lấy cái nhân dạng này cho dù nó có thể dẫn đến những ý niệm sai lầm.

Bohm: Rốt cuộc là dẫn tới đó, hẳn là thế rồi – hẳn là nhân dạng sẽ mang đến cho ta một trạng thái hóa học nhất định. Còn chính ta cũng cảm thấy ta muốn duy trì điều đó. Toàn bộ cơ thể chấp nhận nó. Bản thân cơ thể có thể chấp nhận một trạng thái hóa học nhất định và có nhu cầu đòi hỏi trạng thái đó phải được duy trì. Thế là tư duy sẽ cố thực hiện điều này. Nhưng thêm vào đó, một cách trừu tượng hơn, tư duy lại còn khẳng định rằng có một nhân dạng cần được duy trì – nhân dạng này là tất yếu một cách tuyệt đối.

H: Tôi sẽ nhìn thấy nó ngay nếu tôi nói được về nó bằng ngôn từ của chính mình. Nhân dạng nương nhờ vào những cái trừu tượng, đó là những hình ảnh; và rồi mỗi hình ảnh ấy lại là một thể liên tục, có một trạng thái hóa học. Và trạng thái hóa học đó theo một nghĩa nào đó lại có một thực tại đối với nó, và tất cả đều là sự vận động?

Bohm: Đúng vậy, tất cả đều là sự vận động. Nó bao gồm trạng thái hóa học và có lẽ ẩn sau trạng thái hóa học còn bao gồm cả một thực tại vật chất nữa – trạng thái vật lí, trạng thái điện học, và những cái nằm sau đó nữa.

H: Cứ cho là tôi tìm thấy điều này ở đâu đó; và rồi một cách mơ hồ, tôi muốn thay đổi. Nhưng tôi không hề nghĩ rằng những hình ảnh là cái cần phải thay đổi – mà chính là trạng thái hóa học mới cần phải thay đổi.

Bohm: Toàn bộ cần phải thay đổi. Ta hoàn toàn có thể thay đổi những hình ảnh, nhưng trạng thái hóa học lại không thay đổi theo cách ấy. Phải thay đổi hết toàn bộ cơ ta cần nhìn thấu vào cái toàn thể.

H: Có phải sự bền vững của trạng thái hóa học là nguyên nhân gây ra bệnh tật không?

Bohm: Sự bền vững của trạng thái hóa học và sự bền vững của những ý niệm liên quan đến chúng là những thứ không thể chia tách, bởi vì nếu những ý niệm của bạn về trạng thái hóa học bảo rằng việc duy trì nó là tất yếu một cách tuyệt đối, thì điều đó sẽ khiến cho trạng thái hóa học trở nên bền vững. Bạn không được quyền nói rằng trạng thái hóa học được củng cố một cách độc lập với những ý niệm cho rằng hệ thống xem như một toàn thể đang tạo ra trạng thái hóa học ở chỗ này chỗ kia.

H: Có phải xuất phát từ việc duy trì bằng được những hình ảnh mà người ta có nhu cầu dán nhãn cho mọi thứ và mọi người để rồi đặt tất cả vào những chiếc hộp con hay không?

Bohm: Điều đó là xuất phát từ hình ảnh – việc mà ta đặt mọi người vào trong các hộp, kiểu như bạn nói. Và trên thực tế rất có thể họ có nhiều chiếc hộp khác nhau; có thành ngữ nói về việc đội nhiều loại mũ khác nhau – kiểu như đi làm đội một kiểu mũ, về nhà lại đội một kiểu mũ khác.

Toàn bộ quá trình như vậy là không mạch lạc. Khi bắt đầu nhìn vào nó, bạn thấy nó không gắn kết gì với nhau cả. Đó là sự thiếu mạch lạc của hình ảnh. Và rồi nếu bạn thật sự nhìn thấy nó – nếu bạn thật sự không còn tin nó tí nào nữa – thì bạn buộc phải nói rằng việc coi hình ảnh là cái tối quan trọng không hề là một lựa chọn nghiêm túc.

Việc này vẫn có thể cứ tiếp tục có tác dụng, vẫn có một số lượng lớn trạng thái hóa học mà chúng ta không nắm hiểu được, v.v. Nhưng một bước đi hết sức then chốt ngay ở đây là phải có cái nhìn thấu, rằng thật ra toàn bộ quá trình không có nghĩa lí gì cả. Nó không được xây dựng trên một nền tảng nào. Nó đúng là thứ phù du nhất trên đời. Không có gì phù du hơn là các thứ tư duy; ấy thế nhưng các thứ tư duy vẫn có thể cố thủ và nói “tôi vĩnh viễn phải giữ nguyên cách vận hành này như một sự tất yếu tuyệt đối”. Cái cơ bản chỗ này là nghĩ được về một con người sáng tạo chứ không phải về một con người có nhân dạng.

H: Tư duy mà phù du đến như vậy thì thật ra nó đâu có nằm trong bản thân các tế bào não, phải thế không ạ?

Bohm: Chính là trong các tế bào não đấy, nhưng giống như một sự vận động phù du – nó đến rồi đi, nó lẫn vào với trạng thái hóa học và với các dòng điện, và lẫn vào tất cả những cái như thế.

H: Nếu vận động xác định nhân dạng mạnh, nó có thể là một chướng ngại đối với năng lượng sáng tạo?

Bohm: Vâng, chắc chắn nó ngăn cản năng lượng sáng tạo. Vận động xác định nhân dạng có thể là chướng ngại chính. Chúng ta đã và đang lần theo những chướng ngại này và giờ đây đã có thể tiến khá gần đến cội nguồn của chướng ngại chính – đó là mưu đồ cố giữ khư khư cái nhân dạng này, cái nhân dạng thuộc về hệ thống phản xạ.

H: Tôi không nghĩ mọi người xưa nay đã nhận ra một cách nghiêm túc sự nguy hại của việc xác định nhân dạng. Vào thời điểm hiện tại, khi được ngài làm rõ, thì việc có nhân dạng xem ra có vẻ là một mối nguy hiểm thật sự. Vận động phù du của nhân dạng có thể làm tắc nghẽn năng lượng; nó có thể là một chứng nghiện ngập rất nặng, bởi vì nó rất gần với mãnh lực của tính tất yếu.

Bohm: Vâng, tất cả đều được trói buộc với nhau. Ta có thể xem xét điều này. Nhân dạng có một ý nghĩa nhất định nhưng hạn chế. Không phải ta sẽ tiến tới vứt bỏ nó, nhưng nó thực sự không có được một ý nghĩa nền tảng sâu sắc vĩnh cửu.

Có một dòng chảy và một sự vận động vĩnh cửu mang tính sáng tạo. Nhưng tính sáng tạo này có thể bị mắc kẹt trong một quá trình nào đó tỏ ra có tính cơ giới. Thực ra thì quá trình ấy không hề có tính cơ giới, vì nếu có cái nhìn thấu mới mẻ thì nó luôn luôn có thể thay đổi. Nếu là cái máy ắt hẳn nó không bao giờ thay đổi. Tôi muốn nói rằng xét cho sâu xa thì nó không phải hoàn toàn là một cái máy, nhưng nó có thể hành xử cách nào đó giống như một cái máy. Vậy tức là ta có thể biểu hiện quá trình này xem như một quá trình cơ giới, nhưng chỉ tới một điểm nhất định nào đó mà thôi.

Ta hãy tạm dừng ở đây và nghỉ giải lao ít phút.

Bohm: Ta vừa thảo luận với nhau về hình ảnh của bản ngã – bản ngã với tư cách người quan sát và bản ngã với tư cách người bị quan sát. Chúng có vẻ như tách biệt với nhau vì xưa nay chúng được hình dung theo lối ấy. Hình ảnh tạo ra tri giác về sự tách biệt này.

Nên chăng bàn thêm một chút về điều này, nếu các bạn không phản đối?

Ta đã nói rõ ràng với nhau rằng theo một nghĩa nào đó thì con người chẳng đích thị hiện diện đó sao – y là cái có thực. Câu hỏi được đặt ra là: con người có tồn tại với một nhân dạng vĩnh cửu hay không? Và nếu có, thì liệu nó là cái gì đây? Ta đã nói với nhau rằng xem ra cái khái niệm về nhân dạng này không được mạch lạc cho lắm. Toàn bộ nền tảng về mặt tư duy là rất phù du, chẳng có gì thực chất.

Bởi vậy nên mới cần gợi ra một cách nhìn khác đi về con người. Thực sự không ai biết mỗi cá nhân được xây dựng trên nền tảng nào. Có khi nó là tổng của toàn bộ tất cả những gì tồn tại – toàn bộ vật chất, thậm chí vượt ra ngoài vật chất. Bản thân ta là vật chất kết tụ lại từ khắp mọi cõi. Carbon trong chúng ta không biết chừng có xuất xứ từ khí carbonic có trong khắp bầu khí quyển. Nó có thể đã từng ở một phía bên kia nào đó của thế giới, rồi luồn vào cây cỏ, vào muông thú, vân vân, và sau đó nó nhập vào ta. Với ôxy, với nước, với tất cả có lẽ đều vậy. Tức là nói cho hết nhẽ thì ta được xây dựng trên nền tảng của toàn bộ vũ trụ. Vậy là bạn có thể đi xuyên suốt theo hướng này một cách khoa học để nói rằng ta sinh ra từ đất, trái đất lại được hình thành nên từ chất khí nóng đến từ những ngôi sao hay từ đâu đó, rồi những cái này lại đến từ bụi vũ trụ giữa các hành tinh – vân vân và vân vân, ngược tới tận Vụ Nổ Lớn và thậm chí còn từ trước đâu đấy xa hơn nữa. Do đó, ta có quyền nói rằng tất cả những thứ ấy đã hiệp lực tạo ra chúng ta – tạo ra những cấu trúc vật chất chính là chúng ta đây. Vậy là theo một nghĩa nào đó ta buộc phải công nhận rằng vật chất là có thật.

Nhưng những gì ta tư duy về nó lại không thật. Chúng là những sự biểu hiện, chúng chứa những hình hài, mô thức. Tư duy về cái bàn chứa đựng một hình hài. Nhưng thực sự ra thì cái bàn đâu có dừng lại ở cái cách mà ta nhìn thấy nó – nó bị phần nào nhòe đi ở cấp độ nguyên tử. Và trong vật lí học hiện đại, một trong những điều người ta nói, đó là không gian trống rỗng đầy ắp năng lượng, một lượng năng lượng khổng lồ. Mỗi sóng trong không gian trống rỗng có một lượng năng lượng cực tiểu nhất định nào đó, thậm chí khi nó là chân không, và nếu cộng gộp tất cả các sóng lại thì nó là vô tận. Nhưng gộp tổng các sóng lại mà độ dài nhỏ hơn cái gọi là độ dài Planck (10⁻³³ cm – một khoảng cách cực ngắn mà vượt khỏi khuôn khổ đó thì người ta cho rằng những định luật vật lí hiện hành không còn đúng nữa‖, thì tổng năng lượng trong 1 cm³ khối sẽ có thể còn lớn hơn năng lượng của toàn bộ vật chất trong vũ trụ. Vậy ý tưởng ở đây là, không gian hầu như đầy ắp, còn vật chất là một gợn sóng lăn tăn nổi lên trên đó. Chiếu theo kiến thức vật lí học hiện đại, bạn có thể đưa ra những luận cứ vững chắc để chứng minh cho điều này.

Tương tự, chúng ta cũng có thể nói rằng bất cứ điều gì nằm đằng sau tâm trí, ý thức hay bất cứ tên nào mà bạn muốn dùng để gọi nó – là một dòng chảy mênh mông và trên mặt nó là những gợn sóng lăn tăn, chính là tư duy của chúng ta. Đây dường như là một sự tương tự. Thậm chí khi chúng ta nói về những sự việc “ở đây”. Chúng thật ra là những gợn sóng nhỏ trên một bề mặt có năng lượng to lớn nào đó đang vận động. Lí do duy nhất năng lượng này không hiện ra là bởi vì vật chất và ánh sáng đi thẳng qua nó mà không bị lệch đi. Những gì chúng ta cảm nghiệm là khoảng không trống rỗng. Nhưng nó cũng có thể được coi là tính đầy đặn của không gian, nó là cơ sở của mọi sự tồn tại. Như vậy vật chất là một dao động xét trên cơ sở này.

Tuy nhiên bây giờ chúng ta bắt đầu nghĩ về các hình thức trong tư duy, nhờ có chúng mà chúng ta có thể biểu hiện được vật chất. Những hình thức đó trừu tượng hơn vật chất nhiều. Chúng ta có thể tạo ra các hình thức ấy bằng đủ mọi cách – làm ra những bức tranh trông rất thật, vân vân, nhưng bản thân chúng không phải là vật chất. Giống như những bản đồ, những hình thức ấy có thể giúp định hướng và đưa ta tới với những hành động phù hợp, mạch lạc, nếu chúng là những miêu tả đúng. Ngược lại chúng sẽ dẫn đến sự không mạch lạc và mọi vấn đề sẽ sinh ra từ đó.

Đó là bức tranh chung. Mọi sự vật mà chúng ta thật sự nhìn thấy đều tồn tại theo một nghĩa nào đó và, trong mối quan hệ giữa chúng ta với chúng, chúng ta sẽ khám phá ra rằng chúng sẽ mạch lạc nếu có được tư duy đúng đắn. Nhưng cái nền tảng của sự vật nằm ở tầng sâu hơn nhiều. Ít nhất nó nằm trong cấu trúc vật chất, cấu trúc này bền vững hơn nhiều so với tư duy về nó. Và rồi vượt qua cấu trúc vật chất sẽ đến một cấu trúc khác, có thể bền vững thậm chí vô tận so với cấu trúc vật chất đó, hay là có thực chất hơn nó nhiều.

Vậy trí tuệ có thể là “mặt bên kia” của cùng một sự vật ấy – cái mà chúng ta gọi là năng lượng là một mặt, còn mặt kia là trí tuệ. Tức là năng lượng bị tràn ngập bởi một loại trí thông minh, có lẽ là sự nhìn thấu, hay là những tri giác sâu hơn về sự thật. Đây chỉ là một gợi ý.

Thế còn chúng ta thì sao? Chúng ta nói rằng nền tảng của chúng ta ở trong tất cả cái đó. Nhưng chúng ta có đủ loại biểu hiện mang tính siêu hình về bản thân. Và chúng ta cố gắng đồng nhất với chúng. Nhưng một khi chúng ta làm thế, chúng ta có cái phẩm chất của tư duy đang nhập làm một với tri giác. Chúng ta tri giác một cách rõ ràng những cái mà chúng ta miêu tả – dường như chúng có tồn tại thật. Nó giống như một cái cầu vồng; chúng ta nhìn thấy cầu vồng nhưng cái mà chúng ta nhìn thấy thực chất chỉ là những giọt nước mưa và ánh sáng – đó là một quá trình. Tương tự, cái mà chúng ta thấy là một bản ngã, nhưng cái ta chỉ là hàng loạt ý nghĩ diễn ra trong ý thức. Chúng ta đang phóng chiếu cái bản ngã, nhưng thật ra đó chỉ là một cái cầu vồng, lên cái phông nền của ý thức. Nếu bạn bước đến gần cái cầu vồng, bạn sẽ không bao giờ đến được. Hình ảnh của cái bàn cũng được tạo ra theo cách đó, nhưng nếu bạn bước đến gần cái bàn thì bạn đến được và có thể chạm vào nó.

Tôi đang gợi ý rằng nếu bạn cố gắng chạm đến cái bản ngã, thì bạn cũng gặp khó khăn như khi bạn cố chạm đến cầu vồng. Chúng ta có một sự biểu hiện về cái bản ngã, là sự biểu hiện thật ra được nảy sinh trong một quá trình. Chúng ta không biết rõ cái quá trình này, nhưng cái ý đồ đối xử với bản ngã như một đồ vật sẽ chẳng có ý nghĩa gì hết. Ngược lại, ta cũng có thể nói bản ngã là chưa biết; ta không biết được nguồn gốc của nó, nền tảng của nó. Và nó đang thường xuyên tự bộc lộ bản thân nó, thông qua mỗi cá nhân hoặc thông qua tự nhiên hoặc thông qua nhiều cách khác.

H: Bản ngã có lộ ra ngoài không?

Bohm: Bất kì cái gì bạn muốn nói qua hai chữ “bản ngã của mình” đều có thể lộ ra. Tra theo từ điển thì nghĩa cơ bản của chữ “bản ngã” là “tinh hoa” – là bản chất của bản chất. Người ta gọi nó là bản chất thứ năm. Trong thế giới cổ đại cho rằng có bốn bản chất, rồi về sau người ta thêm bản chất thứ năm vào, nó là bản chất của vạn vật. Ý ở đây muốn nói “bản thân” sự vật hay sự việc chính là bản chất của nó. Do đó, cái bạn muốn nói qua hai chữ “bản ngã của mình” cũng chính là bản chất đích thực của bạn. Bạn bảo: có cái “tôi” là ta đây, là chủ thể, rồi có cái “tôi” là đối tượng, rồi lại có cái “bản ngã của tôi” – “bản ngã” chính là bản chất mà cả cái “tôi” này lẫn cái “tôi” kia lấy làm nền tảng. Nhưng việc sử dụng ngôn ngữ kiểu đó sẽ khiến nảy sinh những sự biểu hiện dễ nhầm với thực tại.

Đó là tất cả những gì tôi muốn nói: dù bản ngã có là cái gì, thì ta cũng không biết được bản chất của nó nhưng bản chất đó lại thường xuyên tự bộc lộ mình.

Cốt yếu là phải xóa sạch cái tư duy cho rằng ta là cái gì đó có giới hạn và đã được biết. Tôi dám nói ta không phải là cái có giới hạn và đã được biết. Không có cái gì là cái có giới hạn và đã được biết cả; khả quan nhất thì nó cũng chỉ có thể là một sự trừu tượng hóa hay một sự biểu hiện mà thôi. Cái thực tại này không thể là cái đó được.

H: Điều đó liệu có giúp ta nhìn vấn đề này dưới góc độ của sự khác biệt về mặt định hướng hay không? Hiểu theo một cách thì “tôi” đã được biết là điều chúng ta đang nói. Toàn bộ kí ức, toàn bộ sự cảm nhận về nhân dạng của bản ngã ở cấp độ này là cái đã được biết. Một định hướng khác đi có lẽ là “tôi đang tìm biết”.

Bohm: Nếu bạn đang tìm biết thì đúng. Tuy nhiên, nếu bạn đang tìm biết thì tức là bạn không thể biết việc bạn đang tìm biết vô hình trung hàm chứa cái không biết. Do đó, ta có thể nói rằng cái không biết đang tự bộc lộ mình ở những gì bạn đang tìm biết. Nhưng cái không biết vẫn luôn còn đó. Nói cách khác, ta sẽ không tát cạn được cái không biết – ta đã từng nói với nhau rằng ngay cả trong vật lí học cũng thấy có hình này, hình ảnh về năng lượng vô hạn của không gian trống rỗng. Điều đó gợi cho ta thấy sự bao la của cái không biết. Cái không biết tự nó bộc lộ ra. Chúng ta tìm biết, nếu bạn thích vậy; chứ còn kể cả ta đang không tìm biết đi nữa thì nó cũng cứ tự bộc lộ.

Đó là một khái niệm tổng quát. Đó là cách nhìn con người một cách sáng tạo chứ không hẳn là ý niệm về một nhân dạng của con người.

H: Cái gì tự bộc lộ bản thân nó?

Bohm: Cái không biết. Cái không biết đặt nền móng cho tất cả mọi thứ. Nó tự bộc lộ mình bằng nhiều cách. Đó là một cách nhìn có tính sáng tạo, một khái niệm mang tính sáng tạo về con người. Đó là cái mà chúng ta đang gợi xuất, chứ không phải một khái niệm về nhân dạng – một khái niệm quá hạn hẹp và nhàm chán đủ kiểu.

Chúng ta không biết. Còn khi bạn đã nói “tôi cứ như thế này mãi” thì mọi việc ít nhiều bị tắc nghẽn lại hết. Bạn vẫn luôn có thể hỏi “bạn làm sao biết được bạn là cái gì?”. Bạn có thể đã và vẫn đang là thế này, nhưng chẳng có gì bảo đảm rằng nếu bạn đã và đang như thế nào thì rồi mãi mãi sẽ vẫn cứ là thế.

H: Nếu tôi giơ tay lên, tôi cũng có thể nói đây là cái không biết đang tự bộc lộ mình. Nếu tôi nhìn li nước của ngài thì tôi cũng có thể nhìn nó như cái không biết đang tự bộc lộ mình.

Bohm: Vâng, thứ gì cũng thế. Rất có thể cái không biết cũng vẫn tự bộc lộ mình như cái mà trước đó nó là. Có rất nhiều thứ tự bộc lộ mình theo cách như thế mặc dầu nằm bên dưới nó là một dòng chảy vĩnh cửu, nhưng dòng chảy đó vẫn sản sinh ra cùng cái hình hài mà ta đang biểu hiện nó trong tư duy của mình. Thế có nghĩa là tư duy của ta thích hợp với việc biểu hiện những hình hài đó, và nó rất có thể bóng gió ám chỉ những gì ẩn bên dưới, nhưng nó thật sự không duy trì được điều này.

H: Nếu tôi làm một việc gì đó, chẳng hạn vẽ một bức tranh, đó có phải cũng là cái không biết đang tự bộc lộ mình hay không?

Bohm: Có thể là như thế, hoặc nó có thể xuất phát từ kí ức của bạn. Tuy nhiên, ngay cả cái thực tại cơ bản của kí ức cũng là cái ta không được biết. Chúng ta phải nói rằng bất cứ cái gì ta biết đều chỉ là một hình hài mà ít nhiều ta đã phóng chiếu lên cái phông của ý thức – giống như điều chúng ta làm với cầu vồng. Nó có thể được phóng chiếu đúng hay sai; chẳng phải hình hài nào cũng khả quan như hình hài nào.

Nhiều, rất nhiều hình hài có thể được phóng chiếu. Chúng ta có thể có những nền văn hóa khác nhau và những cách nhìn cuộc sống khác nhau, và tất cả những cái khác nhau khác, mỗi cái đều ở những cấp độ mạch lạc khác nhau. Điều quan trọng là, cái nhìn toàn diện phụ thuộc vào văn hóa, và chúng ta phải đặt câu hỏi xem nền văn hóa đó mạch lạc đến mức nào. Bạn có thể thấy rằng một thứ gí đó không chỉ được cá nhân làm ra, mà nó mang đậm tính tập thể. Bằng cách chia sẻ tư duy và ý thức với nhau, chúng ta đang phóng chiếu những hình hài vào mọi thứ. Chiều nay ta sẽ thảo luận vấn đề này, kết hợp với vấn đề đối thoại.

H: Khi nói về sự mạch lạc hoặc sự thiếu mạch lạc của truyền thống văn hóa, có phải ý ngài muốn nói rằng sự biểu hiện, sự trừu tượng hóa, cũng có thể hoặc là mạch lạc hoặc là thiếu mạch lạc hay không? Nhưng bản thân chất liệu – khung tranh và tấm toan vẽ – thì lúc nào mà chẳng mạch lạc.

Bohm: Đúng vậy, cấu trúc vật chất thì bao giờ cũng mạch lạc, mặc dầu rất có thể nó không phải như những gì ta nghĩ về nó.

H: Thế thì sự không mạch lạc chỉ có thể nằm ở những sự biểu hiện sao?

Bohm: Nó nằm ở hình thức của những hình ảnh biểu hiện. Và trong những hành động mà những hình thức ấy dẫn đến.

H: Vậy là không có cái gì có giới hạn và đã được biết cả, trừ phi ta nhìn sai, có phải thế không ạ?

Bohm: Tư duy lúc nào cũng đưa ra những giới hạn có giá trị hiệu lực tương đối.

Tôi đưa ra giả thuyết rằng bạn có thể có hai khả năng. Một khả năng là nói rằng cái gì cũng có giới hạn hết, nên tri thức thừa sức “chạm” được đến giới hạn. Mặt khác lại có thể nói rằng tri thức không cách gì đi đến cùng được. Mọi người đang cố tìm xem đâu là tri thức tối hậu. Vào thế kỷ 19, các nhà khoa học từng ngỡ rằng họ đã có được thứ tri thức ấy. Nhưng sau rồi họ nói “không, không phải thế”. Ngày nay cũng chưa có dấu hiệu gì cho thấy ta đã có được lí thuyết chung cuộc, mặc dầu mọi người đang xôn xao về một “lí thuyết của vạn vật” mà họ hi vọng rồi sẽ có được. Nhưng trước hết, bạn chắc chắn có thể nói rằng mọi thứ tri thức xưa nay ta từng có đều bị hạn chế cả. Vậy là điều này không chứng minh được gì hết, nhưng nó đặt ra một nghi vấn.

Cứ cho là cuối cùng các nhà vật lí cũng sẽ tìm ra được một lí thuyết của vạn vật đi – tìm thấy những hạt cơ bản cuối cùng, tối hậu mà ta sẽ đặt tên là những “hạt tối hậu ―ultimon‖”. Và cứ thế hết thế kỷ này đến thế kỷ khác. Tính toán trên cơ sở các hạt ultimon, người ta sẽ cắt nghĩa được hết mọi thứ. Nhưng như thế vẫn không có gì bảo đảm rằng biết đâu một phút nữa hay một giờ nữa hay ngày mai hay thế kỷ sau người ta lại chẳng phát hiện ra một giới hạn cho tất cả, và thế là lí thuyết này sẽ không còn hiệu lực.

Nói cách khác, bạn không có cách nào biết được bạn đã có nó trong tay hay chưa. Cho nên việc giả định có được lí thuyết tối hậu là một chiến lược quá dở, vì cứ cho là bạn có được tri thức tối hậu trong tay đi, thì rồi sau đó bạn sẽ không còn tìm kiếm cái gì khác nữa, và bạn bị nó cho vào bẫy. Làm sao bạn biết được bạn đang có cái tối hậu trong tay. May ra bạn chỉ có thể nói kiểu “Chúa bảo tôi thế” nhưng nếu mọi người hỏi “làm sao anh‗chị biết” thì sao đây?. Bạn không bao giờ có thể chắc chắn một cách tuyệt đối rằng bạn đang có được thứ tri thức tối hậu, dù bạn có tin đến đâu. Tốt hơn cả là bạn cứ nói rằng “theo chỗ tôi biết thì mọi việc sẽ diễn ra như thế đấy”.

H: Vậy là cuộc truy tìm cái tối hậu xét về mặt tri thức bản thân nó đã là một sai lầm.

Bohm: Đúng thế, có thể đó là một sai lầm rất nghiêm trọng – thuộc vào cái lỗi hệ thống mà ta đã nói với nhau. Chúng ta phải để mở. Bạn có thể thấy nó quan trọng như thế nào. Nếu có được tri thức tối hậu về nguyên tử thì vô hình trung ta cũng sẽ có được tri thức tối hậu về nhân dạng, vì ai trong chúng ta mà chẳng được cấu thành từ nguyên tử. Khối các nhà khoa học đang loay hoay với giả thuyết này – họ nói rằng thể nào chúng ta cũng sẽ có tất cả, rằng trí tuệ nhân tạo sẽ mô phỏng được tất tần tật, vân vân. Nhưng tôi thì lại cho rằng đó là một quy trình không mạch lạc.

H: Ngài phân biệt thế nào giữa sự tìm kiếm tri thức với sự tìm kiếm một cái gì đó tối hậu bên ngoài phạm vi tri thức?

Bohm: Bạn không thể tìm kiếm nó được, vì ngay cụm từ “tìm kiếm” đã hàm cái ý là phải cố gắng nắm giữ nó. Tôi nghĩ rằng, một khi còn dính dáng đến tư duy, ta cũng chỉ nên nói thế này thôi: ta phải để ngỏ cái khả năng rằng biết đâu ngoài tri thức ra còn có cái gì đó nữa, và đúng là nghe ra rất có lí. Ngay đầu tiên, ta đã nói với nhau rằng có rất nhiều bằng chứng cho thấy tri thức không thể là cái gì hoàn thiện. Thứ hai, nhất định phải có cái gì đó ở bên kia nữa, nhưng ta lại không chứng minh được. Nên ta mới phải đặt câu hỏi “liệu còn có thể có cách nào khác để tiếp xúc được với cái này hay không?”. Có thể có mà cũng có thể không.

H: Liệu động lực nhằm tìm kiếm tri thức tối hậu có giống với động lực nhằm tìm kiếm cái nằm phía bên kia đó không?

Bohm: Tôi không cho là như thế. Tôi nghĩ rằng việc tìm kiếm tri thức tối hậu đúng ra là đi tìm sự an toàn. Nhưng ta cũng phải nói rằng đi tìm cái nằm phía bên kia – tức cái không biết – thì cũng không hợp lí. Nếu thật sự nhìn thấy cái đó, không biết chừng nó sẽ mang lại cho bạn sự an toàn. Nhưng ít ra theo những gì ta hình dung thì cái không biết xem ra lại chẳng an toàn lắm.

H: Đó là cách ta hình dung nó dưới góc nhìn này.

Bohm: Vâng. Có lẽ khi bạn nghĩ như thế, thì nó có thể an toàn.

H: Ngài đang có ý nói rằng tri thức không phải là phong vũ biểu của sự hiểu biết?

Bohm: Điều đó thì đã rõ, vì tri thức luôn là đối tượng của phép thử về tính mạch lạc, mà sự mạch lạc lại là cái nằm bên kia của sự hiểu biết. Bạn không làm sao biết hết được các phép thử về tính không mạch lạc.

H: Như vậy phải chăng ngoài sự hiểu biết dựa trên cơ sở của tri thức, còn một sự hiểu biết nữa dựa trên sự nhạy cảm nào đó hay không?

Bohm: Vâng, biết là một quá trình dựa trên cơ sở của cái không biết.

H: Tôi nghĩ nên chăng ta xem xét mối liên hệ giữa hình ảnh tối hậu của bản ngã và việc tìm kiếm sự hiểu biết tối hậu, và xem xem điều này có liên quan gì đến những cái ta bàn với nhau lúc nãy – tức là về việc từ ngữ tạo ra cảm giác, vân vân, hay không?

H: Nếu tôi làm một việc gì đó, chẳng hạn vẽ một bức tranh, đó có phải cũng là cái không biết đang tự bộc lộ mình hay không?

Bohm: Cũng giống như các nền văn hóa nhìn chung vẫn làm, nếu bạn mặc định rằng có một thứ tri thức tối hậu thật, thì bằng tri giác, thứ tri thức tối hậu đó được coi như một cái gì khả hữu. Do đó mà những ý định của bạn, sự thôi thúc trong bạn, động lực của bạn, sẽ hướng tới cái đó, bởi nếu thứ tri thức tối hậu như thế tồn tại thì đáng để cố gắng mà đạt tới lắm. Thế nhưng nếu nó không tồn tại thì bạn hẳn sẽ bảo: “tôi không quan tâm. Đối với tôi nó là vô tích sự”.

H: Dường như ở tất cả các nước và các nền văn hóa ta đều bắt gặp những thứ “chân lí” hoặc “ý tưởng” phổ quát, kiểu như Mười Điều Răn hay là Quy Tắc Vàng. Không hiểu nó có giống với một phản xạ không, hay nó chỉ là một hình ảnh của bản ngã mà mọi người phóng chiếu lên khắp hành tinh?

Bohm: Có lẽ xưa nay đã tồn tại một sự nhìn thấu rằng tất cả mọi người cần quan hệ với nhau theo cách nào đấy cho xã hội vận hành trơn tru và để cho mọi việc đều có một ý nghĩa – một sự nhìn thấu khiến bạn nhận ra rằng không thể cư xử với người khác một cách hoàn toàn vô luân, rằng nếu bạn làm thế thì nó sẽ vận ngược vào bạn, rằng thế là không được, không mạch lạc.

H: Liệu đó có phải là cái hình ảnh của bản ngã được phóng chiếu ra không?

Bohm: Không. Tôi nghĩ cái nhìn thấu ban đầu vượt ra ngoài điều này, nhưng sau đó tư duy vơ lấy nó rồi đưa nó vào hệ thống và phóng chiếu ra cái hình ảnh của bản ngã. Nói cách khác, mọi thứ đều có thể bị cuốn vào cái guồng quay này.

H: Liệu ta có thể để ngỏ mục đích, không trông chờ việc có được tri thức hay kết quả gì hết, mà cứ để mặc cho mọi việc trôi đi, kiểu “thây kệ” được không?

Bohm: Thì đó chính là câu hỏi ta đang đặt ra. Câu trả lời duy nhất sẽ phải là hoặc làm hoặc không? Bằng vào tri thức, ta không thể thật sự trả lời câu hỏi này được. Nếu nó là cái không biết và không thể được trả lời dựa trên cơ sở tri thức thì có lẽ phải viện đến một cái gì khác mà cho đến nay ta gọi là “tri giác về sự thật” hoặc là “nhìn thấu”. Và ta cũng đã thảo luận chi tiết về các dạng tư duy khác nhau, đã xét đến những tư duy đang hướng vào con đường này, những tư duy thuộc vào nền văn hóa của chúng ta.

Có lẽ ai trong chúng ta cũng đang có một sự nhìn thấu ở mức nào đó để nhìn thấu được điều này, và rồi cũng đã mang lại tác dụng nhất định. Nhưng còn phải tốn rất nhiều công sức để hiểu rõ được toàn bộ cơ chế hóa học đang duy trì nếp cũ.

Đó là điểm tôi muốn nhấn mạnh. Nếu không muốn gọi là “nhìn thấu” thì ta có thể gọi là “nhận thức về chân lí” vậy. Và lúc này ta có thể đặt câu hỏi: vậy chân lí là gì? Nền văn hóa của chúng ta cũng đã đẻ ra rất nhiều sự lầm lẫn xung quanh khái niệm này, khiến cho việc tìm hiểu nó trở nên rất khó khăn.

Có một thuyết về chân lí cho rằng những ý niệm đúng đắn là những ý niệm tương ứng với thực tại, chẳng hạn như ý niệm đúng đắn về cái bàn phải tương ứng với thực tại của cái bàn. Nhưng ta vừa cùng nhau thấy rằng không thể có chuyện như thế, vì ý niệm nào thì cũng chỉ là một sự biểu hiện – một sự trừu tượng hóa luôn bỏ sót phần lớn những gì là thực tại. Nên khó mà biết được nó tương ứng với cái gì. Chẳng hạn, nếu là một tấm bản đồ chuẩn xác, thì liệu nó có tương ứng với bất cứ cái gì trong một quốc gia không? Trên bản đồ là những đường, những chấm thể hiện thành phố, đường lộ, sông ngòi và các vùng biên giới. Những đường vẽ này trên bản đồ là những sự trừu tượng hóa. Chúng không thực sự là đường sá – nếu nhìn thật kĩ bạn sẽ thấy đó là những chấm mực in li ti, tất cả nối tiếp với nhau thành dãy. Tương tự như thế, đường phân ranh giữa các nước cũng đâu có thực. Chúng được mọi người tưởng tượng ra. Rốt cuộc thì người ta cũng có thể dựng lên nơi đó một dãy cọc rào hay một bức tường thành, nhưng là do mọi người nghĩ rằng ở đó có một đường vạch nên họ mới dựng nó lên. Thế có nghĩa là sự tương ứng giữa cái trừu tượng này với cái trừu tượng kia đã dẫn dắt bạn. Nhưng đó chỉ là sự tương ứng về hình thức, là những dạng thức trừu tượng nhất định, chứ không phải là sự tương ứng với thực tại – bản thân thực tại thì tuột khỏi tay bạn mất rồi. Tất cả mọi thứ tương ứng theo lối này đều không thể tự chúng coi mình là thực tại được.

Cũng có thể có một sự tương ứng thuộc loại đó nhưng lại thuộc về một ý niệm đúng đắn. Một ý niệm đúng đắn thì sẽ không chỉ dẫn tới loại tương ứng đó, mà còn dẫn đến hành động mạch lạc. Nhưng tôi thiết nghĩ chân lí còn là một cái gì hơn thế nữa. Một ý niệm có thể đúng hay không đúng hay lưng chừng đâu đó giữa đúng và sai; nhưng chân lí thì phải là cái gì đó sâu sắc hơn. Ta nên dành từ “chân lí” cho một cái gì sâu sắc hơn nhiều.

Gốc cửa từ “đúng [true]” trong tiếng Anh có nghĩa là “ngay thẳng”, “thành thực” và “chân thành” – kiểu như khi nói về một đường thật thẳng thì người Anh nói là “a true line”. Còn gốc Latin của từ chân lí lại là verus, mà gốc của verus thì có nghĩa là “cái đúng như thế”. Như vậy, bạn có thể nói rằng ý niệm thô sơ về nghĩa của từ “chân lí” hẳn phải là thẳng thắn, thành thực và chân thành đối với cái đúng như thế. Nhưng làm gì có chân lí nếu tâm trí không thẳng thắn, thành thực và chân thành; nếu tâm trí cứ cố tự đánh lạc hướng mình; nếu cơ chế hóa học cứ cho phép làm điều đó. Để chân lí xuất hiện, ắt phải có một tình huống nhất định nào đó xảy ra trong bộ não.

H: Trong tiếng Hi Lạp từ chân lí viết là Aletlia, có nghĩa là “ra khỏi trạng thái hôn mê” “ra khỏi giấc ngủ”.

Bohm: “Ra khỏi giấc ngủ” là đúng. Bạn phải tỉnh táo để sẵn sàng đón nhận chân lí. Nói cách khác, phải có được cái ta tạm gọi là một “trạng thái tinh thần” nào đó nhất định; mà nói cho đúng thì đó cũng là một trạng thái của hệ thống vật chất. Khi toàn bộ hệ thống trở nên quá bát nháo thì cái điều nhìn chung sẽ xảy ra thường là: cả hệ thống chứa đầy hiệu ứng điện hóa của cái tư duy không mạch lạc đó, nó làm nhiễu tri giác khiến bạn buồn ngủ, vân vân. Bạn có thể nói bộ não chất đầy cái mà tôi gọi là “lớp sương mù điện hóa”. Và khi cái đó hiện diện thì ta không có được chân lí.

Theo tôi, ý niệm cho rằng có một chân lí trừu tượng – ở đâu đó, kiểu gì đó, đang chực sẵn chỉ đợi ta tóm lấy – thì cũng chẳng khác gì ý niệm về tri thức tối hậu. Chân lí là cái sống động hơn thế. Nó phải là loại vận động không tự mình đánh lạc hướng mình. Và vì thế nó phải khớp, phải mạch lạc với “cái đúng như thế”. Chân lí là một tri giác đồng thời lại là một hành động. Hành động của chân lí sẽ xua tan lớp sương mù điện hóa, tạm cho là thế, để bạn có thể nhìn được rõ ràng hơn. Và hệ thống cũng sẽ không bị đầu độc nữa, đại khái vậy. Chí ít thì chân lí phải như thế. Chân lí không chỉ là thông tin về “cái đấy”. Mà đúng ra phải coi chân lí là nhân tố then chốt trong “cái đấy”.

H: Chân lí quan hệ như thế nào với cái bản ngã chưa biết đang tự bộc lộ mình?

Bohm: Cội nguồn của chân lí cũng phải giống như cội nguồn của nhìn thấu – vượt khỏi những gì tư duy có thể nắm bắt. Và rồi chân lí hiện đến và tiếp xúc với trạng thái hóa lí của bộ não, chẳng khác gì là nó đang tạo ra những từ ngữ để thông báo cho tư duy biết về nó.

Chân lí không hề trôi nổi đâu đó một cách trừu tượng, mà là chân lí đích thực. Điều đó muốn nói rằng chân lí là một nhân tố có trong hiện thực. Chân lí tiếp xúc với “cái đúng như thế” một cách mạch lạc khi nó tiếp xúc với những gì đang diễn ra trong não và xóa bớt đi một vài thứ trong những gì đang diễn ra đó. Và rồi từ lúc này đổ đi, nhận thức chân lí phải khiến nảy sinh ra được loại tư duy có đủ khả năng hành động một cách mạch lạc hơn.

H: Ngài không tách chân lí ra khỏi “cái đúng như thế” đấy chứ?

Bohm: Không, chân lí thuộc về “cái đúng như thế”. Chân lí là một vận động, một hành động, bên trong “cái đúng như thế”. Nó đúng là có thật.

H: Ngài có nói được rằng chân lí là hành động, và có thực tế riêng của nó hay không?

Bohm: Đúng. Chân lí có thực tế riêng của nó.

H: Vậy lẽ nào sự trải nghiệm chân lí là cuộc sống không có phản xạ? Có thể nào chúng ta sống không cần đến các phản xạ?

Bohm: Chân lí không phải là một phản xạ. Nó là một sự nhận biết sáng tạo bằng vào tri giác. Chúng ta cần đến phản xạ nhưng không được để phản xạ khống chế.

H: Một sự nhìn thấu có thể cho ta thấy được chân lí về các hoạt động của hệ thống hay không?

Bohm: Tôi diễn đạt nó thế này: nhận thức chân lí có thể là một ánh chớp lóe của nhìn thấu, nó thật sự thay đổi hệ thống, khiến hệ thống trở nên mạch lạc hơn. Và đồng thời nó sinh ra ngôn từ, hay một cái gì đó, để nói lên được một nền tảng mới đối với tư duy.

H: Liệu điều này có vô hình trung nói rằng ta cần có sự mạch lạc để tiếp xúc với chân lí hay không?

Bohm: Não phải bình lặng trở lại. Sự không mạch lạc này là nguồn cơn của đám sương mù điện hóa. Nền văn minh của chúng ta đã nhả đám sương mù hóa học ra đầy khí quyển, và những lá phổi đôi khi không còn đủ điều kiện để hít thở cho đúng nữa. Tương tự như thế, bộ não không có đủ điều kiện để đáp lại chân lí.

H: Vậy làm thế nào để đáp lại được chân lí?

Bohm: Trong đám sương mù này thì không được; hoặc nó sẽ phải đáp lại một cách lầm lẫn. Và do đó mà không phải là chân lí.

H: Chân lí có nằm trong địa hạt của sự biểu hiện hay không?

Bohm: Không. Chúng ta chỉ cố đưa ra những ngôn từ để nói lên được phần nào vấn đề mà thôi. Nhưng nó là một thực tế. Không thể miêu tả chân lí được, nhưng nó là một thực tế đang tác động. Nhận thức chân lí là một hành động thực tế làm thay đổi mọi việc; không phải chỉ là chân lí về cái gì đó khác.

Còn có cả chân lí về sai lầm nữa. Chân lí về sai lầm không chỉ cho thấy rằng đó là sai lầm; chẳng hạn như trong trường hợp làn sương mù điện hóa, chân lí về sai lầm cho thấy rằng đây là một quá trình vật chất. Rốt cuộc, nằm bên dưới sai lầm lại là chân lí.

H: Nhưng sai lầm chỉ nằm trong sự trừu tượng hóa.

Bohm: Sai lầm được sinh ra thông qua sự trừu tượng hóa không thích đáng, nó thuộc loại sai lầm đi đến chỗ cố tự bảo vệ mình.

H: Thời gian không thể ảnh hưởng được đến chân lí tuyệt đối.

Bohm: Chân lí sao có thể lại là thời gian. Thậm chí có lẽ nó cũng không xảy ra trong thời gian. Cứ cho rằng phần nào hành động của chân lí là chân lí hành động trong cái đám sương mù điện hóa kia, trong các mối nối thần kinh, để loại bỏ sự thiếu nhất quán. Nếu cần có thời gian mới làm được thì nó không thể làm việc ấy, vì “cái đúng như thế” thường xuyên thay đổi. Và tri giác đúng đắn về một thời điểm hẳn sẽ không nhất thiết phải đúng đối với thời điểm tiếp sau đó.

H: Thế thì chân lí được bộc lộ ra trong sự vắng mặt của tư duy. Liệu rằng nó có đồng nghĩa với cái đẹp và với niềm vui hay không?

Bohm: Đúng, ít nhiều chúng cũng cùng một lĩnh vực.

H: Với cũng những đường nét ấy, một tác phẩm nghệ thuật lớn thuộc bất kì loại hình nào đều không chỉ có một sự biểu hiện chính xác cái nó đang biểu hiện, mà hình như còn có cái gì hơn thế nữa. Điều đó có đúng không?

Bohm: Trong chừng mực nào đó là đúng. Một cái gì đó giống như thế. Có một cái gì đó hơn thế – tri giác – vượt ra bên ngoài việc thuần túy biểu hiện các sự vật. Mặc dầu sự biểu hiện vẫn có đó, nhưng còn hơn thế nữa. Có lẽ còn có một sự nhận biết chân lí bằng tri giác khi nghệ sĩ đang vẽ nó, đang thực hiện nó.

H: Và có lẽ đó là một phần lí do giải thích vì sao chính kiểu hệ thống áp chế của chế độ độc tài tìm cách cố tình hạn chế và kiểm soát nghệ thuật.

Bohm: Họ không chỉ kiểm soát và hạn chế nghệ thuật, mà còn kiểm soát và hạn chế hầu hết tất cả mọi thứ. Họ kiểm soát và hạn chế khoa học, chẳng hạn, vào bất cứ một khuôn khổ nào mà họ cho là phù hợp. Họ sử dụng nghệ thuật đúng như kiểu sử dụng khoa học.

Tôi nghĩ rằng nhận thức chân lí chỉ có thể thực hiện khi có tự do. Do đó ta cần phải đặt ra đây cả vấn đề về tự do nữa, nhưng tạm thời ta lại không có nhiều thời gian. Nhưng về cơ bản thì chân lí và tự do phải nằm trong cùng một phạm trù.

H: Chân lí có giống với tri thức tối hậu không?

Bohm: Tuy nhiên nó không thể là tri thức. Chân lí hành động liên tục từ thời điểm này đến thời điểm khác, đó là điều tôi đã cố nói. Chân lí là hành động liên tục từ thời điểm này đến thời điểm khác.

H: Có phải đó chính là lí do mà Einstein đặt trí tưởng tượng lên trên tri thức hay không? Đại khái ông ta đã nói “trí tưởng tượng có ích cho người đời nhiều hơn là tri thức nhiều lắm”.

Bohm: Nếu đó là trí tưởng tượng sáng tạo thì đúng, vì nó dẫn ta đến với tri giác mới mẻ, hành động mới mẻ.

H: Nhưng loại trí tưởng tượng sáng tạo ấy lại bị nền văn hóa của chúng ta áp chế, cho nên trong cả nghệ thuật lẫn khoa học chúng ta đều bị trói buộc đến hai lần.

Bohm: Vâng, vì vậy tới đây ta sẽ phải thảo luận về đề tài văn hóa. Bây giờ tôi chỉ tạm nêu ra những ý cơ bản thôi, để vào đầu giờ chiều ta có thể bắt tay thảo luận về văn hóa và đối thoại, rồi tiếp tục với các câu hỏi khác về người quan sát và cái bị quan sát, về thời gian và vân vân.

Chúng ta vừa nêu ra vấn đề xã hội và văn hóa, là những cái đang chèn ép tất cả những thứ nói trên, đang tạo ra cái đám sương mù kia. Rắc rối thật ra không xuất phát từ trong cá nhân, mà cá nhân tự mình cũng không có khả năng xử lí được hết mọi rắc rối. Sự thay đổi của cá nhân có tầm quan trọng lớn, nhưng ngay cả khi cá nhân đã thật sự thay đổi thì sự thay đổi ấy vẫn chỉ mang một ý nghĩa hạn chế. Ta vẫn còn đó cả một nền văn hóa mang theo sương mù. Do đó, toàn bộ nền văn hóa mà không thay đổi thì khó mà có được một ý nghĩa sâu sắc nào. Về cơ bản, toàn bộ vấn đề về nhân dạng, về hình ảnh của bản ngã, về sự chèn ép, về những mặc định và về tất cả những thứ như thế đều được nảy sinh ra trong văn hóa, là cái mang trong nó một cách hiểu chung cho mọi thứ. Chúng ta đều có chung tất thảy những cái đó. Ta có thể loại bỏ vài thứ, chấp nhận vài thứ, nhưng ngay cả việc ta làm được điều đó cũng là thuộc về văn hóa rồi. Đó là cả một hệ thống. Và nằm bên dưới hệ thống lại là văn hóa.

Tôi cho rằng nếu được thì chiều nay ta nên bắt đầu bàn với nhau về văn hóa, và về việc tại sao đối thoại lại là một cách để bắt đầu tìm hiểu xem văn hóa đang tác động như thế nào vào lĩnh vực mà ta đang đề cập. Nếu chỉ nhìn xem tất cả những cái này đang diễn ra ra sao bên trong bản thân chúng ta thì không đủ, vì phần lớn nó diễn ra giữa chúng ta.

H: Khi nãy lúc ngài nói về chân lí và nhìn thấu, tôi chợt có một ý nghĩ. Có một cái trong toán học gọi là “giai thừa” dùng để tính số các cách kết hợp sự vật khác nhau. Nếu có ba đối tượng, thì ta sẽ có sáu cách, hay sáu tổ hợp sắp xếp tức là bằng một nhân hai nhân ba. Giai thừa của mười sẽ là hơn ba triệu. Bộ não người có khoảng hai mươi tỷ nơron, vì vậy nếu ta lấy giai thừa của hai mươi tỷ ta sẽ có một con số vô tận các ý định và các mục đích. Nếu bộ não ở trạng thái tình lặng, trong đó việc áp đặt điều kiện và việc suy nghĩ của bạn đều dừng lại, thì phải chăng lúc đó bộ não mới có được một phẩm tính vô tận hay phi giới hạn? Phải chăng chỉ trong trạng thái đó, bộ não mới có thể chia sẻ hoặc tiếp xúc được với bản tính đích thực của chân lí và nhìn thấu?

Bohm: Nếu bộ não thực sự không bị điều kiện hóa quá sâu, và nếu tất cả những tổ hợp này được tự do thay đổi, thì bộ não có thể phản ứng vô số cách khác nhau và có thể vận động trong mối quan hệ với chân lí.

Ta tạm dừng ở đây chăng?

Bình luận
Ads Footer