NÊN sao chép, chia sẻ, KHÔNG NÊN thương mại hoá.

Liêu Trai Chí Dị – Tập 2

Quyển 12 – Chương 222: Hoàn Hầu

Tác giả: Bồ Tùng Linh
Chọn tập
Ads Top

Bành Hiếu Sĩ ở Kinh Châu (tỉnh Hồ Nam) uống rượu nơi khác về nhà, dọc đường xuống ngựa đi tiểu. Con ngựa cúi xuống ngoạm cỏ bên đường, có một bụi cỏ nhỏ xanh tốt rất đáng yêu vừa trổ hoa vàng rực rỡ chói mắt, con ngựa ăn mất quá nửa. Bành nhổ chỗ còn lại ngửi thấy có mùi hương lạ bèn cất vào túi lại lên ngựa đi tiếp, thấy ngựa phi như bay thích chí cũng không tính đường về, cứ để mặc cho nó chạy. Chợt thấy mặt trời lặn xuống sau núi mới kéo cương nhìn quanh thì thấy núi non chập chùng, không biết là chỗ nào. Chợt có một người áo xanh tới, thấy con ngựa đang hí vang, bèn nắm dây cương nói “Trời đã xế rồi, chủ ta mời ông ghé lại”. Bành hỏi đây là nơi nào, người ấy đáp “Là đất Lãng Trung (tỉnh Tứ Xuyên)”. Bành cả sợ té ra trong nửa ngày đã đi hơn ngàn dặm, nhân hỏi chủ nhân là ai, người kia đáp “Tới nơi sẽ biết”. Lại hỏi nhà ở đâu, đáp cũng gần đây thôi, rồi dắt ngựa kéo đi mau. 

Bành thấy người ngựa cùng như bay, qua một rặng núi thì có nhà cửa phòng ốc trùng điệp ở lưng chừng núi che khuất lẫn nhau. Từ xa nhìn thấy một đám người áo mũ chỉnh tề như đang chờ ai, Bành tới nơi xuống ngựa thì họ đều vái chào rất cung kính. Kế chủ nhân bước ra, khí thế oai mãnh, y phục đều khác người trần, chắp tay nhìn khách nói “Khách hôm nay không có ai xa như Bành quân”, rồi vái chào mời Bành đi trước. Bành từ tạ không chịu bước lên, chủ nhân bèn nắm tay kéo đi, Bành thấy tay như bị cùm siết chặt, đau như sắp gãy, không dám tranh cãi nữa bèn đi. Những người còn lại bèn nhường nhau đi trước, chủ nhân đẩy người này kéo người kia, khách đều xuýt xoa rên rĩ muốn quỵ xuống như không chịu nổi, cùng theo lời chủ nhân vào. Tới sảnh đường thấy trần thiết hoa lệ, cứ hai người vào ngồi một bàn. Bành hỏi nhỏ người ngồi với mình rằng chủ nhân là ai, đáp là Hoàn hầu*, kinh ngạc không dám ho hắng, mọi người cũng đều ngồi im. 

*Hoàn hầu: tức Trương Phi, tướng và là em kết nghĩa của Thục chủ Lưu Bị thời Tam quốc, nổi tiếng dũng mãnh, trấn thủ Lãng Trung, bị bộ tướng làm phản ám sát, thụy là Hoàn hầu. 

Rượu được vài tuần, Hoàn hầu nói “Hàng năm cứ quấy quả các vị, nên có tiệc mọn để tỏ lòng. Lại được khách từ xa tới, có thể nói là hạnh ngộ, ta muốn xin một vật, nếu thương thì cho, không thì không dám ép”. Bành đứng dậy hỏi vật gì, chủ nhân đáp “Con ngựa của ông đã có tiên cốt, không phải người trần cuỡi được, xin đổi con khác cho ông, có được không?”. Bành đáp “Xin kính cẩn dâng lên, không dám đánh đổi”, Hoàn hầu nói “Ta sẽ đền một con ngựa thật tốt, lại tặng thêm vạn lượng vàng”. Bành rời ghế lạy tạ, Hoàn hầu sai kéo đứng lên. Giây lát rượu thịt bày ra la liệt, mặt trời lặn lại sai thắp đèn uống tiếp. Mọi người đều đứng dậy xin thôi, Bành cũng xin cáo từ. Hoàn hầu hỏi “Ông từ xa tới, tối nay về đâu?”. Bành nhìn người ngồi cùng bàn với mình nói “Đã xin ông đây cho ngủ nhờ tối nay”. Hoàn hầu bèn sai lấy chén lớn rót rượu tiễn khách, nói với Bành rằng “Bụi cỏ mà ông cất, tươi thì có thể giúp người ta thành tiên, khô thì có thể dùng để điểm kim, bảy cọng là được một vạn lượng vàng”. Rồi lập tức sai tiểu đồng chỉ cách cho Bành, Bành lại lạy tạ. Hoàn hầu nói “Ngày mai xin ra chợ tới chỗ bán ngựa tùy ý lựa lấy một con, không cần phải trả giá đưa tiền, ta sẽ tính cho”. Lại nói với mọi người rằng “Ông khách ở xa, lúc trở về nên giúp đỡ ít nhiều tiền đi đường”, mọi người vâng dạ, cạn chén rồi cáo biệt. 

Trên đường Bành hỏi họ tên thì người ngồi cùng bàn với mình tên Lưu Tử Vựng, cùng đi hai ba dặm, qua rặng núi thì thấy thôn xóm, mọi người cùng đưa Bành về nhà Lưu rồi kể cho nghe chuyện lạ. Vốn là trong làng hàng năm có tế Hoàn hầu trong miếu, giết bò múa hát để cúng đã thành lệ. Lưu là người chủ tế, vừa cúng xong ba hôm trước, trưa nay chợt có người tới từng nhà mời mọi người vào núi, hỏi ai mời thì đều trả lời qua quít nhưng hối thúc rất gấp. Qua khỏi rặng núi thấy lầu gác, mọi người nhìn nhau kinh ngạc, sắp tới cổng người kia mới nói thật, mọi người cũng không ai dám từ chối lui về. Người đi mời nói “Xin cứ họp lại ở đây chờ ta đi mời một người khách xa”, tức là Bành vậy. Bành nghe kể rất lấy làm lạ lùng. Trong bọn có người bị Hoàn hầu nắm tay đau quá sợ gãy xương, cởi áo thắp đèn lên nhìn thì thấy da thịt bầm tím, Bành nhìn lại mình cũng thấy thế. Mọi người ra về, Lưu liền mang chăn chiếu ra ngủ chung với Bành. 

Sáng hôm sau trong làng tranh nhau mời cơm, lại theo Bành vào chợ tìm ngựa, hơn mười ngày chọn qua mấy mươi con mà không có ngựa hay, Bành cũng quyết ý tìm bằng được. Hôm sau lại vào chợ, thấy có một con dáng vẻ rất khỏe mạnh, cưỡi thử thấy đúng là tuấn mã bèn trở vào làng đợi người bán nhưng trở lại thì đã bỏ đi mất. Bành bèn từ biệt người làng trở về, mọi người đều mang tiền tới tiễn tặng, ngựa đi một ngày được gần năm trăm dặm, Bành về tới nhà kể lại chuyện, mọi người đều không tin, đến khi Bành lấy những sản vật ở đất Thục (vùng Tứ Xuyên) ra cho xem mới cùng ngạc nhiên kinh sợ. Mớ cỏ lâu ngày khô dần, còn được bảy cọng, Bành theo cách đã được chỉ dẫn làm phép điểm kim, trong nhà vụt giàu hẳn lên. Bèn tìm tới nơi ấy vào miếu Hoàn hầu cúng tế tạ ơn, chơi với người làng ba ngày rồi về. 

Dị Sử thị nói: Xem Hoàn hầu mời khách mới tin rằng việc thần Vũ Di mời khách ở Mạn Đình* là có thật. Nhưng chủ nhân kính khách, tỏ tình thân ái mà khiến người ta như bị gãy tay thì có thể biết năm xưa khỏe mạnh tới mức nào. 

Ngô Mộc Hân kể có Lý sinh môi không che kín miệng, răng vẩu chìa ra ngoài cả đốt ngón tay. Một hôm tới dự tiệc ở nhà nọ, có hai người khách nhường nhau chỗ trên chỗ dưới đến khổ, một người cứ ra sức đẩy lên, một người cứ hết sức trằn lại, dùng sức mạnh quá vung khuỷu tay ra, đúng lúc Lý đứng phía sau bị khuỷu tay thúc trúng miệng rơi luôn hai chiếc răng cửa, máu tuôn như suối. Mọi người ngạc nhiên, hai người kia mới thôi không tranh cãi nữa. Chuyện ấy cũng buồn cười như chuyện Hoàn hầu nắm tay làm khách muốn gãy xương vậy. 

*Việc thần Vũ Di mời khách ở Mạn Đình: Chư tiên ký chép năm Thủy Hoàng thứ 2 thần núi Vũ Di là Vũ Di quân mời dân làng tới ăn tiệc vào ngày rằm tháng tám trên đỉnh núi, kết lán giăng màn rực rỡ, người ta nhân thế gọi đất ấy là Mạn Đình.

_________________

Chọn tập
Bình luận
Ads Footer