(Trích tác phẩm: Scientia sacra)
1.
Trước Công nguyên khoảng sáu trăm năm, xuất hiện một loạt những cá nhân ưu tú như ở Trung Quốc là Khổng Tử và Lão Tử, ở Ấn Độ là Buddha, ở Iran là Zarathustra, hoặc, không cần đi đâu xạ, ở Hi Lạp: Heracleitos, Pythagoras, Empedokles.
Hình ảnh về những con người này tỏa sáng ngay từ giây phút đầu tiên. Họ khoan thai và sự tự chủ vô bờ bến; họ có kiến thức về thiên văn học, địa chất học, tôn giáo, giáo dục, y học, lí thuyết cai trị nhà nước, siêu hình học, thi ca.
Trong các thời đại muộn hơn, người ta nghi ngờ con người cổ ưu tú với tri thức đa dạng, và thế là họ đã truyền thuyết hóa những khả năng tri thức đa dạng của các nhân vật cổ ưu tú này. Thực ra sự nghi ngờ này vô nghĩa.
Pythagoras xuất hiện khoảng 582-496 trước Công nguyên, Empedokles còn muộn hơn nữa. Mọi dấu hiệu đều chỉ ra rằng họ nếu không hoàn toàn như người thường thì cũng không hẳn chỉ là nhân vật truyền thuyết. Và trong thời kỳ lịch sử nếu có thể hình dung rất rõ về họ thì không lý do gì không đặt giả thuyết họ cũng từng như vậy cách đây một-hai trăm năm.
Những cá nhân mang tính chất vũ trụ trở nên đáng nghi ngờ trong cái thế giới ngày nay, một thế giới bị thu hẹp theo (cái gọi là) các chuyên môn hẹp. Người Hi Lạp gọi họ là các nhà thần học (palaioi theologoi). Để có thể đi ngay vào bản chất sự vật, ta có thể xác định tính chất và vị trí vũ trụ của những nhân vật này: họ là những chủ thể thần thánh (szakrális szubjektum).
Bởi vì kể cả Pythagoras, Orpheus, Solón lẫn sự hiện diện phương Đông hay Cận đông đều không mang ý nghĩa quan trọng là gần như cùng một hình thức tự chủ như nhau, họ điều hành công việc nhà nước, viết thi ca, chữa bệnh, dạy học và sáng tạo ra toán học.
Tầm quan trọng không nằm trong sự giàu có về các khả năng mà trong cái tên người Hi Lạp đã đặt cho họ. Đây là những chủ thể thần thánh. Ý nghĩa vũ trụ của họ vượt quá tầm con người. Sự rạng tỏa tự chủ và chuẩn xác thể hiện trong lời nói và hành động của họ, tính siêu việt vượt tầm con người của họ có thể thu nhận được từ cảm giác, dù nhiều khi chỉ thông qua các giai thoại ngu xuẩn.
Nhà thần học cổ xưa là kẻ ít người biết đến trước khi con người bước vào thời kỳ lịch sử, nhưng quả thật đã từng hiện hữu. Từ đó tới nay chủ thể thần thánh này đã bị biến mất. Sau sự xuất hiện của một cá nhân vĩ đại cuối cùng, Platon, lịch sử không biết thêm một tầm vóc siêu việt nào hơn nữa.
Chống lại cá nhân thần thánh, ngày nay người ta thường đưa ra một luận điểm: thời đó – người ta nói – cuộc sống còn thô thiển, hệ thống các mối quan hệ chưa hình thành, các nhân tố kết hợp nhau ít ỏi, tri thức ít ỏi, cộng đồng thì bé nhỏ, nên ở một ý nghĩa nhất định nào đó, tầm phổ quát không thể có.
Quan niệm này sai lầm như thế nào thiết tưởng không cần nhấn mạnh thêm. Tầm phổ quát không phải là kiến thức bách khoa toàn thư và đa ngành. Cả hai thứ này đều là tri thức góp nhặt vật chất, thiên về số lượng. Tri thức hay vô tri thức cả hai đều không đủ, Kinh Veda từng nói. Còn Heracleitos cho rằng: tri thức không dạy được nhiều điều. Trang Tử cũng nói đúng như vậy.
Thực ra con người thời cổ phát triển hoàn thiện hơn rất nhiều. Tính phổ quát không phải là tri thức vật chất mà là phẩm chất tinh thần. Không nảy sinh từ bản chất đời sống nguyên thủy, mà từ những sức mạnh tinh thần không thể tưởng tượng nổi, từ sự trực tiếp và độ sâu sắc của những sức mạnh ấy.
Có thể trong thời cổ, sự xuất hiện và hoạt động của các chủ thể thần thánh là tất nhiên; và có thể chủ thể thần thánh thể hiện sự sống cổ còn sống động, xác thực, sinh động hơn những văn bản truyền lại về họ.
Về vai trò, vị trí và nhiệm vụ của họ có thể nhận thấy một điều, họ là người Thầy của Đời sống. Giảng hòa các nhà nước như Bias? Chấm dứt các mối quan hệ xã hội và viết các cuốn luật như Solón? Là nhà thơ, nhà tiên tri, linh mục và thánh như Orpheus?
Đúng. Chuyên môn hóa trong mọi lĩnh vực đời sống chưa chứng tỏ hết bản chất hoạt động của họ, họ còn biết ứng dụng vào từng lĩnh vực ấy khả năng tổng quát của mình. Chưa hết. Sau nhiều thế kỉ khi sự sống cổ dường như một lần nữa nổi lên trong thời đại của Julius Caesar có vẻ như chủ thể thần thánh một lần nữa xuất hiện. Trong một giây như thể sự sống mở lần nữa quay lại, và xoa dịu mọi mẫu thuẫn của đời sống, Schuler viết; như thể trong đó xuất hiện sự sống tinh túy; như thể bằng cá nhân này trích dẫn một lần nữa tính chất thần linh cổ.
Nhưng khoảnh khắc ấy trôi qua, từ trời đất cổ không có gì quay lại hết. Caesar không phải là một chủ thể thần thánh. Sau ánh hào quang siêu việt công khai trước công chúng và lịch sử là những che giấu bẩn thỉu của cuộc đời riêng ma quỷ và đen tối của ông ta.
Bên cạnh đời sống trong sạch như pha lê và như khí ether của Empedoklés và Pythagoras, đời sống của Caesar như vũng nước bùn. Caesar chỉ là một nhân vật lịch sử lớn, nhưng không phải một chủ thể thần thánh, không phải người Thầy của Đời sống. Trọng tâm đời sống Caesar là cái TÔI cá nhân, không phải sự sống Thượng Đế.
Chủ thể thần thánh có thể và chính là người Thầy của Đời sống bởi vì, nói như ngôn ngữ của Schuler, bằng cá nhân mình, họ làm hiện diện lại thần linh, bởi bên trong họ thể hiện sự sống nguyên sơ, bỏi bản chất siêu việt của họ tỏa sáng sự tỉnh táo của sức sống cổ.
Sự sống vũ trụ, thứ từng hiện thực hóa trong thời cổ, cô đọng trong họ, và vẫn tiếp tục duy trì trong vài trăm năm sau khi thời cổ đại biến mất. Những con người này là chủ thể thần thánh bởi bên trong cá nhân của họ họ giữ gìn bản chất thần thánh-Thượng Đế của sự sống cổ.
Trong những khổ thơ của Đạo đức kinh có một (khổ XV) nói về người Thầy thời cổ.
“Những người Thầy cổ xưa biết mở các bí ẩn khóa kín” – khổ thơ vào đề như vậy.
Sau khi trình bày về sự sống và đời sống, sự khép kín và sự khóa kín, sự thức tỉnh và sự mê muội, khổ thơ không đề cập tới những gì khó hiểu hơn.
Hành động và tiêu chí lớn nhất của người Thầy của Đời sống là sự tháo gỡ. Nơi nào đời sống bị khóa lại, nơi nào bắt đầu trở thành đời sống bị chìm đắm, không là gì khác, chỉ là một quá trình sinh học, ở đó có người Thầy, như kẻ dẫn đường cho dân chúng trong sa mạc, khi nước phụt lên từ khe núi, đời sống dành cho sự sống lại một lần nữa mở ra.
Tại vị trí, nơi đời sống bình yên êm ả bắt đầu trở nên khó khăn, người Thầy giải phóng cho nó, khiến nó tiếp cận với những sức mạnh tâm linh. Đây là tri thức của người Thầy.
Bởi vì cuộc sống cần phải bình yên, êm ả, cần phải nhạy cảm, nhạy cảm cao độ để có thể tiếp nhận được những sức mạnh thần thạnh của sự sống. Cần phải mềm mại như người đàn bà hoặc như trẻ sơ sinh. “Thứ gì trên trái đất mềm mại nhất sẽ chiến thắng thứ cứng nhất trên trái đất”. “Mềm thắng cứng, yếu thắng mạnh” – “nếu con người mạnh lên sẽ già đi”.
“Họ nhận biết và hiểu sự vật” – khổ thơ nói tiếp. “Sức mạnh của họ là sự tỉnh táo”. Tình thế ngày càng rõ ràng hơn, Lão Tử trong câu thơ thứ hai đã nói có một khả năng duy nhất của con người để nhận biết và hiểu được sự vật, đấy là sự tỉnh táo.
Câu thơ thứ ba như sau: “Trong sự tỉnh táo của sức mạnh đời sống, họ trở nên lớn lao”. Không còn gì rõ ràng hơn. Cái gì là chủ thể thần thánh của người Thầy của Đời sống? Cái không thể học và truyền lại, gắn bó với một cá nhân duy nhất, một tài năng không bao giờ lặp lại trong một tầm vóc khác, và hướng tới sự nhạy cảm cao độ với sự sống Thượng Đế.
Cái khả năng cơ bản của toàn bộ thời cổ tồn tại trong người Thầy. Khả năng này là chủ thể; chủ thể sự tỉnh táo; chủ thể thần thánh và cao độ. Tài năng này bản thân nó là thời gian, là dân tộc với số phận, sự hoạt động, sự sùng bái, trật tự sống của nó mang theo những sức mạnh Thượng Đế của sự sống, kêu gọi, tiếp nhận, bắt buộc, sống cùng và vì những sức mạnh ấy – và tài năng này là một chủ thể bình yên, là sự mềm mại, nhún nhường, phục vụ: đây là chủ thể trong người Thầy, xuất hiện trong cường độ thường xuyên.
“Ta thử kể lại – Lão Tử nói – họ như thế nào. Họ miễn cưỡng như kẻ mùa đông đi qua sông. Tỉnh táo như kẻ sợ quân thù ẩn náu. Họ minh mẫn như kẻ đến từ quốc gia khác. Họ yếu thế như băng tan chảy. Họ nguyên sơ như vật chất chưa chế biến. Họ sâu sắc như vực thẳm, bí ẩn như nước khuấy động.”
Người Thầy không chủ động. Người Thầy là công cụ. Công cụ của các sức mạnh Thượng Đế thể hiện ở cá nhân và bằng cá nhân của họ. Người Thầy là thực thể thần thánh, kẻ tuyên bố bởi sự sống vũ trụ.
Bản thân họ là cái TÔI con người, miễn cưỡng, yếu thế, nguyên sơ, minh mẫn, sâu sắc nhưng trên tất cả, họ tỉnh táo. Họ không hành động: “Thế giới là sự vật tinh thần, không thể hành động bằng nó. Kẻ nào hành động kẻ đó làm hỏng nó”.
Họ thụ động cho phép sức mạnh hoạt động thông qua nó (thế giới). Họ cẩn trọng, minh mẫn, kiên trì: không tin vào bản thân mình, luôn luôn sống trong sự tỉnh táo để chú ý và nhận ra bản chất của các sức mạnh. Họ bí ẩn, không thể nhìn thấu qua như khi nước bị khuấy lên. Bởi vì các sức mạnh luôn luôn chiến đấu trong họ, không bao giờ có thể biết sức mạnh như thế nào đến trong họ. Chỉ có một điều không thể nghi ngờ đấy là sức mạnh Thượng Đế.
“Ngày nay ai có thể bằng sự tỉnh táo của mình làm tan biến đi sự mê muội của cái TÔI?” Ngày nay ai có thể một lần nữa nâng đời sống của cái TÔI con người lên sự sống?
Tiếng kêu thét của câu hỏi này vang lên từ ranh giới thời cổ. Thời hoàng kim đã trôi qua. Người Thầy của Đời sống đã câm lặng. Không một ai có thể đánh thức dân chúng khỏi sự mê muội đờ đẫn. Bởi vì con người còn không xua đuổi nổi sự đờ đẫn của bản thân mình. Không còn một ai biết phá vỡ đời sống trên những phần đã chai sạn của nó và biết mở nó ra. Không còn một ai biết thể hiện những sức mạnh Thượng Đế trong cá nhân họ.
Con người giờ đây chỉ còn là những cái TÔI. Cái TÔI đắm chìm vào sự mê muội, tích góp của cải, thèm khát quyền lực, chạy theo dục vọng. Người Thầy của Đời sống không cần thiết cho những thứ đó. “Ai đi trên con đường này, không thèm muốn sự giàu có”. Bởi vì: “Kẻ giàu có vẫn có thể là kẻ vô giá trị.”
Người Thầy của Đời sống không phải là người hoàn hảo. Sự hoàn hảo và hoàn thiện là giấc mộng ngu xuẩn của con người. Người Thầy từng là con người, với tất cả đặc tính của sự sống người. Một đời sống đẹp, lớn lao, rõ ràng, cao quý không do sự toàn vẹn mà do sự thiêng liêng mang lại.
Đây là câu kết của khổ thơ: “Trong sự khiếm khuyết của mình họ nhận ra sự hoàn hảo.” Đây là tôn giáo, sự tin kính, sự nghiêm trang trong bản thân họ: họ biết họ là những con người, nhưng cũng chính vì thế họ biết và cảm nhận sự hoàn hảo của sự sống Thượng Đế vô tận cao hơn họ.
Con mắt của họ không bị trói buộc, phụ thuộc vào cái TÔI riêng của họ mà vượt qua cả thế giới của cái TÔI. Trọng tâm và toàn bộ nội dung cuộc đời của họ, số phận họ, không chỉ là cái TÔI bé nhỏ mà còn là cái VÔ HÌNH VĨ ĐẠI. Bởi vậy họ là lời tuyên ngôn của sự sống Thượng Đế. Và bời vậy dân chúng bị thu hút về phía họ. Và bởi vậy họ thiêng liêng.
Bởi vậy họ là những người Thầy của Đời sống. “Người nào mang trong bản thân mình hình ảnh lớn lao của VÔ TẬN, cả thế gian sẽ đến với người đó.”
Người Hi Lạp gọi người Thầy của Đời sống là nhà thần học cổ, bởi công cụ của người Thầy là theos logos, là lời của Thượng Đế.
Logos tất nhiên không chỉ là từ, mà còn là ý nghĩa, động từ, tinh thần, quy tắc, mức độ, dấu hiệu, tượng trưng, luật lệ, bản án, và nhiều thứ khác nữa.
Heracleitos có một câu nói về giá trị hợp nhất của logos, dịch ra là: sự tỉnh táo. Khi ông nói tất cả mọi người đều có một logos, nhưng mọi người không đồng tình, ở đây ý nghĩa sự tỉnh táo đã hoàn toàn che phủ logos. Một trích dẫn khác của ông có thể dịch như sau: pszükhész eszti logosz heauton auxón – linh hồn có sự tỉnh táo biết nuôi dưỡng bản thân nó.
Trong thời cổ ngôn từ là thứ vô hình; Trong hoạt động của ông Thầy của Đời sống là sự vô tư và không thể nắm bắt. Hoạt động này chỉ nhìn thấy khi bước vào thời gian của thời kỳ lịch sử, khi người ta bắt đầu viết. Khi chủ thể thần thánh biến mất, chuyển lại ngôn từ cho thế hệ sau: cho sách.
Ngôn từ trong sách đã đạt được tầm vóc cuối cùng của nó. Ở đây nó trở thành biểu tượng thật sự; thành ý tưởng. Ở đây nó bóc trần bản chất rằng ngôn từ là ma trận của mọi sự vật, như Baader viết: là nguyên tắc của mọi cái tồn tại nối kết tinh thần với thiên nhiên, và hiện thực hóa cả hai.
Bởi vì ngôn từ không phải là sự diễn đạt; điều này chỉ do cái TÔI cá nhân cho là như vậy, và nó sống trong một sự lừa phỉnh rằng thế giới xoay xung quanh cá nhân.
Ngôn từ là tuyên ngôn, và là tuyên ngôn của sự sống tạo hóa Thượng Đế. Bỏi vậy nó là sự tỉnh táo, là sự đánh thức, bởi vậy nó là hành động gọi tên sự vật, là sự thống trị phép thuật. Và ngôn từ gìn giữ khả năng này trong mọi thời gian và trong mọi ngôn ngữ kể cả khi ngôn ngữ đã bị hư hoại, gần như đánh mất hết ý nghĩa thần thánh thiêng liêng của nó, và trở thành công cụ thể hiện của cái TÔI cá nhân. Ngôn từ thực ra là biểu tượng của sự sống thần thánh và vũ trụ.
Thời kì của sáu trăm năm trước Công nguyên mang hai ý nghĩa lớn vẫn ngự trị trên đầu nhân loại từ đó đến nay: chủ thể thần thánh và sách.
Hai thứ này là người Thầy của Đời sống. Chủ thể thần thánh phù hợp với sự sống của thời cổ: bởi vì nó sống, tan ra, mở, tự do, trực tiếp, có tính chất cá nhân, tuyệt đối, cô đọng và hiện thực hóa.
Còn sách phù hợp với sự sống của thời gian lịch sử: bởi nó là đối tượng, ràng buộc, hình thức hóa, gián tiếp, không mang tính chất cá nhân, tương đối, mang tính mở rộng, phản xạ.
Trong thời cổ người Thầy của Đời sống là chủ thể thần thánh đang sống (tồn tại), còn trong thời gian lịch sử người Thầy của Đời sống là sách, là khách thể thần thánh.
Những cuốn sách cổ được viết dưới dạng kinh.
Kinh (sutra) là từ Sanscrit, về mặt ngữ pháp là câu ngắn gồm những từ gần như không có mối liên hệ với nhau. Đoạn văn gồm những từ gốc này có thể gọi là văn bản bí mật. Trong các bản kinh người đánh dấu sử dụng các từ ngữ như các biểu tượng.
Bởi vậy về mặt bản chất cuốn sách cổ ghi bằng từ ngữ Ấn Độ hoặc Iran so với sách cổ ghi chép bằng kí hiệu của Trung Quốc, với sách viết trên giấy cói Ai Cập bằng chữ tượng hình, hoặc chữ khắc trên đá Babilon, hay chữ gút bằng dây (quipu) Peru hoặc Azték Mexiko không có gì khác nhau.
Tác dụng của phong cách này trong toàn bộ các cuốn sách thiêng, trên giấy cói tử thư, trong Kinh Thánh Hê ber đều giống như trong các bản lưu cổ Kabbla, và ngay cả trong các tác phẩm của Heracleitos, Pythagoras, Hermes Trismegistos và phái Khắc kỉ cũng có thể nhận thấy.
Phong cách sutra xuất hiện khi truyền thống truyền khẩu vẫn còn, nhưng các văn bản do người Thầy viết bằng các kí hiệu đã tiếp tục bảo lưu truyền thống này. Về điều này có một câu chuyện kể rằng năm tám mươi tuổi Lão Tử rời bỏ quê hương, nhưng ở biên giới, ngài đã viết lại toàn bộ kiến thức của mình vào trong vài khổ thơ ngắn ngủi khi một viên quan trấn thủ yêu cầu.
Nơi chưa từng tồn tại các kí hiệu, hoặc nơi mà đẳng cấp (kaszt) tinh thần cao bắt buộc phải viết lại truyền thống, như trong rất nhiều trường hợp, ví dụ ở người Kelta, ai dám viết về bất kì cái gì đều bị người Druida trừng phạt bằng cái chết, ở đó theo thời gian, truyền thống cổ một phần bị mất, phần khác hòa tan vào truyền thống mới.
Tại nơi truyền thống mới hòa lẫn một cách hài hòa với truyền thống cũ, tại đó nhiều khả năng xuất hiện một tập hợp mới giống như các tầng địa chất; đây là trường hợp của tác phẩm Tử thư Tây Tạng hoặc tác phẩm của Hermes Trismegistos.
Việc giải nghĩa phong cách của sutra trong Kinh Dịch của Trung Quốc có thể theo từng bước. Cái giờ đây là cuốn sách, trước kia, theo nguồn gốc là sự kết hợp 64 cách biến đổi của 8 nhóm ký hiệu được biểu lộ như những đoạn que (bằng xương) ngắn và dài, tượng trưng cho âm và dương. Những mối quan hệ nhất định của những đoạn que xương này mang những ý nghĩa khác nhau. Sáu lần dương (que xương dài) là biểu tượng của nguyên lý Tạo Hóa. Sáu lần âm (que xương ngắn) là sự Tiếp nhận.
Sau này người ta sử dụng những biểu tượng này để bói bằng các nhánh cỏ thi (achillea millefolii). Toàn bộ hệ thống này tượng trưng cho một thế giới khóa kín. Hệ thống này là một trong những tổng hợp xưa giống như sách Kabbala của dân Do Thái, như sách về chiêm tinh học hoặc lí thuyết số học.
Việc viết thành văn bản các hình ảnh tượng trưng và ý nghĩa của nó là một cuộc cách mạng mà đẳng cấp (kaszt) tinh thần lớn nhất ở Trung Quốc phản đối đến cùng (theo các truyền thống cổ đẳng cấp (kaszt) là đẳng cấp cao nhất trong trật tự xã hội cổ, mang tính chất tinh thần – ND). Đây là một trong những cuộc khủng hoảng lớn đầu tiên của thời kì (gọi là) thời kỳ tiền lịch sử.
Ý nghĩa tượng trưng của các hình ảnh được viết lại dưới hình thức sutra. Cuốn sách được Khổng Tử cứu vãn tương đối muộn. Hoàng đế VŨ và con trai viết chú giải cho Kinh Dịch, và như vậy cuốn sách được mở rộng và không bị đứt đoạn. Lời bình luận xưa cuối cùng là tác phẩm của Khổng Tử. Lúc này cuốn sách về mặt ngữ pháp cũng trở nên dễ hiểu với cả những người chưa nhập định.
Rất có thể những cuốn sách khác như Vedanta, Brahmana, Bundahisn, Sánkhja cũng xuất hiện như vậy. Rất ít cuốn giữ được hình thức gốc ban đầu, ví dụ như Joga-sutra của Patandzsali hay Sánkhja-karika.
Những từ ngữ thoạt trông không liên quan đến nhau trong câu kinh mang tính chất tiếp cận huyền bí, giống như điều người ta mong muốn thực hiện trong thơ cổ nhân loại thời lịch sử – nhưng rất ít khi được thực hiện. Bởi vì thơ cổ của thi sĩ La Rochefoucauld tẩy rửa hết những điều thừa trong nó, so với sutra vẫn là một sự lải nhải. Và sự khác biệt không nằm trong đặc trưng hình thức. Ngôn ngữ cô đọng, nghiêm chỉnh và có sức mạnh không thể bì kịp với ngôn ngữ của sutra.
Bí ẩn cuối cùng của sutra là cái nó đưa ra không phải là khái niệm và hình ảnh, nghĩa là không liên quan gì đến kiến thức duy lí cũng như huyền thoại. Sutra là sự tiếp xúc siêu hình nguyên thủy, dùng để đánh thức. Đây là sự tiếp xúc trực tiếp của người Thầy của Đời sống. Thiếu việc tiếp xúc với sự tỉnh táo không thể thấy bất cứ cái gì trong truyền thống cổ. Dấu hiệu đặc điểm thức tỉnh cơ bản của sutra là bằng chìa khóa cần thiết, chạm vào tâm linh người đọc và lay thức họ.
Sutra phần lớn, cho dù được tập hợp từ nhiều từ, đều thiếu một từ cho một câu hoàn chỉnh. Nếu để làm thức tỉnh cần sáu từ, sutra chi đưa ra năm. Từ thứ sáu là chìa khóa, hoặc người Thầy trao, hoặc cần phải đi tìm. Hoặc như vậy vẫn hiểu được, có thể nhầm lẫn hoặc có thể hiểu ngược lại.
Chừng nào tia chớp thức tỉnh chưa làm người ta hiểu ra, chừng đó con người không giải mã được sutra. Bởi tia chớp là căn nguyên. Đây là tia lửa bùng lên mà Platon nhắc đến trong lá thư thứ 7. Nội dung sâu xa nhất của sutra luôn luôn siêu hình và tuyệt đối. Nội dung hình ảnh thần bí là thứ yếu. Ngữ pháp tuyệt nhiên không có. Đôi khi sutra vang lên như một lời tiên tri, hoặc như một sự tưởng tượng. Püthia từng nói như thế, các nhà thơ từng viết như thế, thánh thần thường tuyên bố như thể.
Sách cổ không thể dịch ra ngôn ngữ châu Âu hiện đại không phải vì rào cản ngữ pháp, mà vì những từ ngữ của sách cổ hoàn toàn thiếu hụt trong ngôn ngữ châu Âu. Thiếu hụt vì ngôn ngữ cổ là hệ thống kí hiệu vũ trụ, còn ngôn ngữ châu Âu là những công cụ thể hiện cái tôi cá thể.
Châu Âu ngày nay, trừ trường hợp ngoại lệ, tất cả những từ ngữ có ý nghĩa và mang tính chất phổ quát đều phải vay mượn từ hai thứ ngôn ngữ vũ trụ cuối cùng là tiếng Hi Lạp và Latin.
Ngôn từ mang tính siêu việt của tinh thần là Hi Lạp và Latin. Những từ ngữ mang tính chất tổng quát đều hoặc là Hi Lạp hoặc là Latin. Bằng hai ngôn ngữ này tinh thần vũ trụ của truyền thống được thể hiện. Các ngôn ngữ châu Âu đã đánh mất khả năng này của nó, mà phần lớn chỉ là công cụ truyền đạt cái TÔI cá nhân.
Gúenon đặt ra giả thuyết thời kì vô truyền thống này bắt đầu từ thời Phục hưng, khi ngôn ngữ không có khả năng biểu đạt nội dung vũtrụ của các dân tộc thay thế cho tiếng Latin. Tất nhiên quan điểm (gọi là) khoa học ngày nay nói ngược lại, cho rằng ban đầu các dân tộc còn thô sơ nguyên thủy nên ngôn ngữ cũng thế, càng cổ càng đơn giản. Nhưng thật ra ngược lại mới đúng.
Ngôn ngữ nào càng cổ càng siêu hình. Vì nếu không như vậy chúng ta đã không bắt buộc phải vay mượn các từ ngữ có tính chất vũ trụ phổ quát từ tiếng Trung Quốc, tiếng Sanscrit, tiếng Hi Lạp, Latin. Trong tiếng Latin khả năng ngầm ẩn vô tận của ngôn ngữ cổ để diễn tả toàn bộ sự vật đã từng có. Sự phổ quát này vẫn giữ được ở mức độ nào đó trong tiếng Hi Lạp.
Không cần nêu ví dụ bởi khả năng này không nằm trong dữ liệu mà ở các mức độ tổng quát. Nhưng nếu ai chưa tìm ra một cách chóng vánh từ ngữ nào mà sự giàu có về ý nghĩa của nó vượt qua cả không-thời gian, hãy đến với từ: Logos. Giải thích nghĩa của từ Logos cần một loại từ điển chứa hàng trăm ngôn ngữ châu Âu, về từ logos có thể đến cả nghìn cuốn từ điển, nhưng những giải nghĩa mới mỗi ngày lại hình thành và hình thành tiếp. Đây là không gian tinh thần để đặt tên và khám phá, không bao giờ cạn. Về ý nghĩa và hình ảnh của siêu hình, tiếng Sanscrit và tiếng Trung Quốc giàu có hơn.
Các ngôn ngữ khác của châu Âu so với tiếng Latin và Hi Lạp dường như đã văn minh hóa, là ngôn ngữ của đẳng cấp tinh thần cao, có học thức, trong khi đó các thế hệ của ngôn ngữ Roaman và Đức như thể một thứ tiếng địa phương. Gần như (được gọi) là ngôn ngữ bếp núc.
Chỉ bằng các từ ngữ Latin và Hi Lạp mới thường xuyên duy trì được những hiện thực và các hoạt động đời sống cao hơn, những tư tường ở cấp độ cao hơn. Các ngôn ngữ sau này không thể nào đạt tới sự giàu có về ý nghĩa, về ngữ pháp và cấp độ siêu hình như thế.
Còn việc quốc hữu hóa nhân tạo và bạo lực mà người ta muốn dùng để dịch ngôn ngữ sẽ dẫn đến việc đánh mất toàn bộ ý nghĩa, cấp độ và sự giàu có của ngôn ngữ. Bời ngôn ngữ không thể tùy tiện chọn lựa.
Giữa các ngôn ngữ nhiều ý tường nhất phải kể đến tiếng Sanscrit. Tiếng gần gũi với chúng ta nhất là Hi Lạp. Đây là thứ ngôn ngữ biết gọi tên những nhân tố thế gian trong bản chất tuyệt đối của chúng, nói cách khác: biết gọi tên một cách chính xác. Cái gì đã hiển thị bằng tiếng Hi Lạp, đều mang tính chất hình ảnh tượng trưng.
Tư tưởng không phải việc của cái TÔI cá thể mà là của cái TÔI tinh thần vũ trụ. Nếu cái TÔI cá thể suy nghĩ, có thể thấy ngay tự bản thân nó tách rời khỏi sự vật. Nó tưởng rằng nếu nó đứng tách xa một khoảng cách nhất, định và từ đó nhìn sự vật, nó sẽ thấy sự thật. Thực ra như vậy nó chỉ nhìn thấy một cách trừu tượng.
Tư tưởng cần khoảng cách, tiêu chuẩn và sự tỉnh táo. Nếu ai tỉnh mới thấy bản chất, và nếu ai nhìn thấy bản chất, người đó có thể chính xác. Sự chính xác chí nảy sinh từ cách nhìn phổ quát vũ trụ. Những tín hiệu siêu hình, những hình ảnh huyền thoại đều chính xác.
Cái nhìn chính xác là cái Platon tuyên bố trong siêu hình-ý tưởng; là cái hiện diện trong lí thuyết số học của Pythagoras, trong chiêm tinh học của người Chaldea, trong Kinh Dịch, trong thuyết giả kim, trong tư tưởng của Böhme hoặc Baader, trong tác phẩm của một vài nhà thơ châu Âu lớn như: Shakespeare, Molie, Keats, Hölderlin, George, Rilke.
Nằm ngoài hệ quy chiếu này, cùng lắm chỉ còn sự trừu tượng, còn đại đa số là một sự nhiễu loạn. Không còn là những tín hiệu hoặc hình ảnh nữa, mà chỉ là các khái niệm. Nền tảng của khái niệm là sự trừu tượng; còn sự trừu tượng giống như sự không tưởng: từ sự thật, từ bản chất, từ tổng quát, từ toàn bộ, từ sự sống củng không tưởng nốt.
Đặc trưng hình thức của sách cổ là sự nhập định, đặc trưng của nội dung sách cổ là siêu hình học. Vai trò cộng đồng của con người là sự duy trì hoạt động của chủ thể thần thánh thời cổ: sự đánh thức. Sách cổ, khi chủ thể thần thánh không còn nữa, đã trở thành người Thầy của Đời sống.
Sách trở thành người cầm quyền, thành nhà tư tưởng, thành nhà tiên tri, thành thánh, thành linh mục, thầy giáo, thầy thuốc. Sự hoàn thiện của sự sống giờ đây không cất lên từ cá nhân con người sống động nữa, mà từ sách. Sách bảo tồn chủ thể thánh thần; truyền bá tiếp truyền thống. Trên đôi môi con người ngày nay không còn thốt lên từ theos logos (Lời của Thượng đế) nữa.
Ở đây để khỏi hiểu lầm cần nói ngay: Sách đã trở thành thế hệ tiếp của ngôn từ sống động mà chủ thể thần thánh cổ sử dụng, nhưng không phải cuốn sách nào cũng thừa hưởng sự thiêng liêng này. Đặc trưng của thời Mạt thế-Khải huyền chính là dù ngôn từ kết án, nhưng bản thân ngôn từ cũng đứng dưới bản án.
Lời tuyên ngôn lẫn việc gọi tên sự vật đều ở trong sự khủng hoảng.
Ngõ cụt của sự khủng hoảng là có khả năng tuyên bố, nhưng không bao giờ trờ thành cái gì khác ngoài khả năng, nghĩa là không thực hiện được. Bởi vậy cuốn sách thần thánh thật sự chỉ có một, hoặc còn lại từ thời cổ hoặc vẫn trực tiếp tồn tại từ tinh thần cổ.
Đặc thù sâu sắc nhất của thời Mạt thế-Khải huyền là nó nằm trước sự giải quyết, nhưng không nhận ra điều này; nó luôn luôn bỏ lỡ thời cơ để bộc lộ; nó không tỉnh mà mộng du. Thậm chí bằng những công cụ để cứu vớt và chạy trốn nó sử dụng để chống lại bản thân.
Trong thời cổ sách trò chuyện như con người, từ đó đến nay con người cũng cần trò chuyện như vậy với sách. Sự tán đồng sách cổ là con người; ngày nay sách cần thánh hóa con người. Trong thời cổ Lời tuyên bố cần phải làm gì và viết gì; từ lúc đó đến nay Chữ tuyên bố cần phải nói gì.